Người chăn giữ đàn thú, người mục tử si tình, những bài thơ rời- Alberto Caeiro (Fernando Pessoa)-DiễmChâu dịch

 

 

 

NGƯỜI CHĂN GIỮ ĐÀN THÚ

I

Chưa bao giờ tôi chăn giữ những đàn thú,
nhưng cũng như thể tôi đã từng chăn giữ chúng.
Tâm hồn tôi tựa như một người mục tử,
nó biết nắng và gió
và tay trong tay đi với bốn mùa,
theo con đường của nó và mắt mở to.
Tất cả sự bình yên của một Thiên nhiên vắng bóng người
tới ngồi cạnh bên tôi.
Nhưng tôi buồn như một buổi mặt trời lặn buồn
theo tưởng tượng chúng ta,
khi trời lạnh dần ở dưới đồng bằng
và ta cảm thấy đêm lướt vào
như một cánh bướm qua cửa sổ.

Nhưng nỗi buồn tôi là sự dịu khuây
vì nó tự nhiên và chính đáng
và ấy là điều phải có trong tâm hồn
khi nó nghĩ là mình hiện hữu
và có những bàn tay hái những bông hoa mà nó không hay.

Từ một tiếng lục lạc
ở bên kia lối quẹo của con đường
những ý nghĩ của tôi cũng lấy làm bằng lòng.
Tôi chỉ tiếc là mình đã biết chúng bằng lòng,
bởi giả như tôi không biết,
thay vì bằng lòng và buồn bã,
chúng có thể vui vẻ và bằng lòng.

Suy tưởng cũng phiền như đi trong mưa
khi mà gió mạnh thêm và trời như muốn mưa to hơn.

Tôi không có những tham vọng cũng chẳng có những thèm muốn.
Là thi sĩ không phải là một tham vọng mà tôi có,
ấy là cách thức riêng của tôi để ở một mình.

Và nếu như có đôi khi, hoàn toàn do tưởng tượng,
tôi ao ước là một con chiên nhỏ
(hay là trọn một đàn chiên đi nữa
để rải rác mình trên cả mợt sườn đồi
và cảm thấy mình là cả ngàn điều hạnh phúc đồng thời),
thì đó chỉ là vì tôi cảm thấy những gì tôi viết lúc mặt trời lặn,
hay khi một đám mây lùa bàn tay trước ánh sáng
và im lặng lướt qua trên cỏ như những lượn sóng.

Khi tôi ngồi lại để viết những vần thơ,
hoặc khi, đi dạo trên những con đường và những lối nhỏ,
tôi viết những câu thơ trên một trang giấy vô hình,
tôi cảm thấy mình với một cây gậy trong tay
và tôi thấy bóng mình
trên đỉnh một ngọn đồi,
đang nhìn đàn thú và thấy những ý nghĩ của tôi,
hay đang nhìn những ý nghĩ của tôi và thấy đàn thú
và mỉm cười vu vơ như người không hiểu điều người ta nói
và lại muốn làm ra bộ hiểu.

Tôi xin chào tất cả những người tình cờ sẽ đọc tôi,
xin ngả nón cúi chào thật sâu
khi họ nhìn thấy tôi trên ngưỡng cửa nhà tôi
ngay khi cỗ xe ngựa xuất hiện trên đỉnh đồi.
Tôi chào họ và tôi chúc họ trời nắng,
và trời mưa, khi họ cần mưa,
và ước mong những ngôi nhà của họ có
bên một khung cửa sổ mở
một chỗ ngồi ưa thích
để họ có thể đọc thơ tôi.
Và khi họ đọc thơ tôi, ước mong họ nghĩ
rằng tôi là một điều tự nhiên—
tỉ như tàng cổ thụ
mà dưới bóng râm, khi còn nhỏ,
họ đã buông mình xuống, lúc nô đùa mỏi mệt,
và lau mồ hôi trên vầng trán nóng bỏng
bằng ống tay chiếc áo khoác ngoài có sọc.

II

Cái nhìn của tôi thật rõ như một bông hướng dương.
Tôi có thói quen khi đi trên đường
con mắt nhìn hai bên tả hữu,
nhưng thỉnh thoảng cũng nhìn lại phía sau…
Và những gì tôi thấy mỗi lúc
là những gì tôi chưa hề thấy trước kia,
ấy là điều tôi hoàn toàn ý thức.
Tôi cảm thấy được sự bỡ ngỡ
của đứa trẻ, ngay từ lúc mới sinh,
đã nghiệm thấy mình sinh ra thực sự…
Tôi cảm thấy mình sinh ra liên tục
trước sự mới mẻ vô tận của Thế giới…

Tôi tin ở thế giới như tin ở một bông cúc dại,
là vì tôi thấy nó. Nhưng tôi không nghĩ tới nó
là vì nghĩ chính là không hiểu…
Thế giới này không được tạo ra để chúng ta nghĩ tới
(nghĩ chính là đau mắt đấy)
mà để chúng ta nhìn ngắm nó với một cảm tình hòa hợp…

Tôi, tôi không có triết lý: tôi chỉ có những giác quan…
Nếu tôi nói về Thiên nhiên thì không phải vì tôi biết Thiên nhiên là gì,
Mà là vì tôi yêu mến Thiên nhiên, và tôi yêu mến nó bởi một lẽ
rằng người yêu không bao giờ biết điều mình yêu,
cũng chẳng biết vì sao mình yêu và yêu là gì…

Yêu, chính là sự thơ ngây vĩnh viễn,
và sự thơ ngây duy nhất là đừng suy nghĩ.

III

Vào lúc nhá nhem tối, nghiêng mình qua cửa sổ,
và như kẻ nhìn nghiêng biết rằng có những cánh đồng trước mặt,
tôi đọc mãi tới khi đôi mắt mình bỏng cháy
tập thơ của Cesário Verde*

Ôi sao tôi thương chàng quá đỗi! Ấy là một kẻ quê mùa
chân bước thong thả trên đường phố mà như bị giam hãm.
Nhưng cái cách chàng nhìn những ngôi nhà,
cái cách chàng quan sát phố xá,
và cái cách chàng nhận thức sự vật,
đúng là kiểu cách của người nhìn những cội cây,
mắt cắm cúi vào con đường mình đi
và nhận ra những bông hoa đang có ngoài đồng…

Đó cái duyên cớ vì sao chàng buồn đến thế
một nỗi buồn chàng không bao giờ thật sự thú nhận,
nhưng chàng đã bước đi trong thành phố như người bước đi ở đồng quê,
và buồn bã như chuyện ép những cánh hoa trong trang sách
và cắm những cây non trong bình…

—————————————-
* Cesário Verde (1855-1886), thi sĩ Bồ, chỉ để lại một tập thơ. (người dịch)

IV

Cơn giông chiều nay kéo tới
đổ xuống những sườn dốc của trời
như một trận đất đá lở khổng lồ…
Tựa như kẻ rũ tấm khăn bàn
qua một khung cửa sổ trên cao,
và những mảnh vụn, hết thảy cùng rơi xuống,
gây thành một tiếng động nào đó khi rơi,
từ trời cao mưa trút nước
bôi đen mọi lối đi…

Khi những lằn chớp lung lay bầu khí
và rung chuyển không gian
như một chiếc đầu lớn lắc lay,
tôi không biết tại sao—lúc ấy tôi không sợ–
tôi bắt đầu cầu khẩn nữ thánh Bárbara
như thể mình là một cô gái già nào đó…

A, chính là nhờ cầu khẩn nữ thánh Bárbara
tôi thấy mình còn giản dị hơn
là những gì tôi tin thực là mình lúc đó…
Tôi cảm thấy mình có một tâm hồn nhũn nhặn và không thích phiêu lưu
của một người mà cuộc đời trôi
thật lặng lẽ, như mảnh tường của khoảnh đất kín bưng;
một người có những cảm nghĩ là vì như thế đó,
như một bông hoa có sắc và hương.
Tôi cảm thấy mình là người tin ở nữ thánh Bárbara…
A, có thể tin vào nữ thánh Bárbara!

Kẻ tin ở sự hiện hữu của nữ thánh Bárbara
hẳn nghĩ rằng bà phải là người thấy được
nếu không thời kẻ ấy có thể nghĩ gì về bà thánh?

(Ôi giả tạo biết bao! Những bông hoa, những cội cây và những đàn thú,
chúng biết gì về nữ thánh Bárbara?
Một cành cây, nếu có biết suy tưởng
hẳn cũng chẳng tạo ra các vị thánh hoặc các thiên thần.
Nó có thể nghĩ rằng mặt trời
là Thượng đế, và cơn giông
là vô số những kẻ
đương nổi cơn thịnh nộ trên đầu chúng ta…
A, những người giản dị nhất trong mọi người
thật bệnh hoạn, xuẩn ngốc và mơ hồ xiết bao
bên sự giản đơn trong sáng
và sự hiện hữu hoàn toàn lành mạnh
của các giống cây lớn nhỏ!)

Và tôi, trộn lộn tất cả những ý nghĩ này,
tôi lại thấy mình kém hạnh phúc…
Tôi đâm ngán ngẩm, buồn sầu và ảm đạm
như một ngày mà suốt ngày cơn giông đe dọa
và đêm tới vẫn chưa chịu bùng ra…

V

Đã có khá nhiều siêu hình học trong sự không suy tưởng.

Tôi nghĩ gì về thế giới ư?
Tôi, tôi biết chăng, điều tôi nghĩ về thế giới?
Nếu như tôi đau yếu, chắc tôi sẽ nghĩ tới.

Tôi, tôi có ý nghĩ nào về vạn vật ư?
Tôi, tôi có ý kiến nào về các nguyên nhân và hậu quả?
Tôi suy tư gì về Thượng đế, về linh hồn
và về sự tạo lập Thế giới?
Tôi không biết. Đối với tôi, nghĩ về những chuyện ấy chính là nhắm mắt
và không suy nghĩ. Chính là kéo màn
trước cửa sổ (nhưng màn cửa, nhà tôi không hề có).

Sự huyền bí của mọi vật ư? Nhưng tôi, tôi biết gì về sự huyền bí ấy?
Sự huyền bí duy nhất chính là có những người nghĩ tới sự huyền bí
kẻ ở ngoài nắng và nhắm mắt
bắt đầu không còn biết mặt trời là gì
và nghĩ tới nhiều chuyện đầy hơi ấm.
Nhưng kẻ ấy mở mắt ra và nhìn thấy mặt trời
và không còn có thể nghĩ tới gì nữa hết
là vì ánh sáng mặt trời đáng giá hơn tư tưởng
của hết mọi triết gia và hết mọi thi sĩ.
Ánh sáng mặt trời không biết điều mình làm.
Và bởi đó nó không lầm lạc, nó là của chung và tốt.

Siêu hình ư? Vậy thời đám cây này có thứ siêu hình nào?
Thứ siêu hình xanh tươi, rậm rạp và có những cành lá
và ra trái vào giờ của chúng, một điều không làm chúng ta suy nghĩ
chúng ta, những kẻ không biết để ý tới sự hiện hữu của chúng.
Nhưng, có thứ siêu hình nào tốt hơn thứ siêu hình của chúng
thứ siêu hình không biết tại sao mình sống
và cũng không biết rằng mình không biết nữa?

«Cấu tạo thâm sâu của vạn vật…»
«Ý nghĩa thâm sâu của Vũ trụ…»
Tất cả những điều ấy đều là giả trá, tất cả những điều ấy đều không có nghĩa gì hết.
Thật không thể tin được rằng người ta có thể nghĩ tới những chuyện như thế.
Có khác nào nghĩ tới những lý do và cùng đích
khi mà buổi đầu ngày le lói và bên sườn đám cây
một ánh vàng mơ hồ và loáng bóng đang mất dần phần bóng tối.
Nghĩ tới ý nghĩa thâm sâu của mọi vật
chính là một điều thêm thắt như nghĩ tới sức khỏe
hay mang một ly nước tới suối nguồn.

Ý nghĩa thâm sâu duy nhất của mọi vật,
chính là sự việc chúng chẳng hề có một ý nghĩa thâm sâu nào hết.

Tôi không tin ở Thượng đế là vì tôi không bao giờ thấy ngài.
Nếu như ngài muốn tôi tin ở ngài
hẳn là ngài sẽ tới chuyện trò với tôi
và sẽ bước vào nhà tôi qua cửa lớn
mà nói với tôi: có Ta đây!

(Có lẽ điều này nghe kỳ cục
đối với người, bởi không biết nhìn ngắm mọi vật nghĩa là gì,
không hiểu được kẻ nói về chúng
bằng cách nói mà sự việc quan sát chúng chỉ dậy.)

Nhưng nếu Thượng đế là những bông hoa và cây cối
là núi đồi và mặt trời và sáng trăng,
thời tôi tin ở ngài,
thời tôi tin ở ngài mọi lúc,
và đời tôi chỉ là kinh nguyện và lễ mi-sa
và một sự hợp thông bằng mắt và thính giác.

Nhưng nếu Thượng đế là những cội cây và hoa
là đồi núi và sáng trăng và mặt trời,
thì tại sao tôi lại gọi ngài là Thượng đế?
Tôi gọi ngài là hoa là cây là đồi núi và mặt trời và sáng trăng;
bởi lẽ, nếu vì muốn tôi được thấy ngài, ngài trở thành
mặt trời và sáng trăng và hoa và cây cối và đồi núi,
nếu ngài xuất hiện với tôi như cây cối và đồi núi
và sáng trăng và mặt trời và hoa,
thì đó là vì ngài muốn tôi nhận biết ngài
như cây cối như núi đồi và hoa và sáng trăng và mặt trời.

Và chính bởi thế mà tôi tuân lệnh Thượng đế
(tôi còn biết gì về Thượng đế hơn là Thượng đế biết về chính ngài?)
tôi tuân lệnh Thượng đế bằng cách sống thật hồn nhiên,
như người mở to đôi mắt và nhìn,
và tôi gọi ngài bằng sáng trăng và mặt trời và hoa và cây và đồi núi
và tôi yêu mến ngài mà không nghĩ tới ngài,
và tôi suy tưởng ngài bằng mắt và bằng tai
và tôi cùng đi với ngài mọi lúc.

VI

Nghĩ tới Thượng đế là không vâng lời Thượng đế
là vì Thượng đế không hề muốn chúng ta biết tới Người,
chính bởi thế mà Người không xuất hiện với chúng ta…

Chúng ta hãy giản đơn và bình lặng,
như những dòng suối và như những cái cây,
và Thượng đế sẽ yêu mến chúng ta, khiến chúng ta
đẹp như những cái cây và như những dòng suối,
và Người sẽ cho chúng ta sự xanh tươi của mùa Xuân
và một dòng sông để ta gieo mình xuống khi tới hồi chung cuộc!…

VII

Từ làng tôi, tôi nhìn thấy về trái đất tất cả những gì người ta có thể nhìn thấy từ Vũ trụ…
Chính vì thế mà làng tôi cũng rộng lớn như bất cứ một một xứ nào khác,
là vì tôi ở tầm mức của những gì tôi thấy
chứ không phải ở tầm mức của vóc dáng riêng tôi…

Ở các thành phố cuộc sống bé nhỏ hơn
là ở đây trong căn nhà của tôi trên đỉnh đồi này.
Ở các thành phố những tòa nhà khóa trái tầm mắt,
che khuất chân trời, đẩy lùi những cái nhìn của chúng ta xa hẳn bầu trời,
thâu nhỏ chúng ta vì lấy mất đi những gì đôi mắt có thể cho,
và làm nghèo chúng ta vì sự giàu có duy nhất của chúng ta là nhìn thấy.

VIII

Vào một buổi chiều về cuối mùa Xuân
tôi đã mơ một giấc mơ tựa như một bức ảnh chụp.
Tôi đã thấy Chúa Giê-su xuống trái đất,
qua một sườn núi
và lại trở thành đứa trẻ.
Chúa chạy và lăn lộn trong đám cỏ,
Chúa bứt những bông hoa để rải rắc đó đây
và tiếng cười của Người vang vọng khắp nơi.

Chúa đã bỏ trốn bầu trời.
Người quá giống chúng ta để có thể cải trang
thành ngôi thứ hai trong Ba ngôi.
Ở trên trời mọi sự đều giả, và hoàn toàn không phù hợp
với những bông hoa và cây cối và những tảng đá.
Ở trên trời Chúa phải giữ bộ điệu nghiêm trang
và lâu lâu lại phải trở lại làm người lớn,
lại phải leo lên cây thập tự, và chết đời đời
với một triều thiên lởm chởm những gai
và đôi chân bị một cái đinh lớn xuyên qua,
và thêm nữa, ngang hông quấn một mảnh giẻ rách
như bọn mọi đen trong tranh ảnh.
Người ta không cho Chúa được có cha có mẹ
như những đứa trẻ khác.
Cha Chúa, có tới hai người:
một ông già tên là Giu-se, làm thợ mộc
và không phải cha Người;
và người cha khác là một con bồ-câu khờ khạo,
con bồ-câu xấu xí duy nhất trên thế giới
là vì nó không thuộc thế giới này và không phải là bồ-câu.
Và mẹ Người chưa từng yêu trước khi có Người.

Mẹ Người không phải là đàn bà: ấy là một cái va-ly
Người đã tự trời cao xuống trong cái va-ly ấy.
Và người ta muốn rằng Người, do một mình mẹ Người sinh ra
và chưa bao giờ có cha để kính cẩn thương yêu,
rao giảng lòng nhân từ và công lý!

Một hôm Đức Chúa Trời nằm ngủ
và Chúa Thánh thần bay lượn trên không,
Người tới thùng đựng phép mầu và lấy trộm ba phép.
Với phép mầu đầu tiên Người khiến cho không ai biết là Người bỏ trốn.
Với phép mầu thứ hai Người biến mình vĩnh viễn vừa là người lớn vừa là trẻ con.
Với phép mầu thứ ba Người tạo ra một Đức Ki-tô vĩnh viễn treo trên thập giá
và Người để Đức Ki-tô bị đóng đinh trên cây thập giá ở trên trời
làm mẫu mực cho tất cả những cây thập giá khác.
Rồi Người trốn về phía mặt trời
Và xuống trần bằng tia sáng đầu tiên mà Người bám chặt.
Hôm nay Chúa ở với tôi trong lòng tôi.
Ấy là một cậu bé tươi cười và thật tự nhiên.
Người chùi mũi bằng cánh tay phải,
Người ngụp lặn trong những vũng nước
Người hái những bông hoa, Người mừng rỡ đón tiếp chúng, Người quên chúng.
Người lượm những mẩu đá ném những con lừa,
Người hái trộm hoa trái trong vườn cây
và bỏ chạy trước đàn chó với những tiếng kêu khóc
và, dù biết rằng họ không thích thế
trong lúc mọi người đều thấy buồn cười
Người đuổi theo những cô gái
đi từng bầy trên đường
đầu đội những bình nước
và tốc váy họ lên.

Tôi, Người đã dạy tôi tất cả.
Người đã dạy tôi biết nhìn mọi vật.
Người đã chỉ cho tôi tất cả những gì có ở những bông hoa.
Người đã khiến tôi thấy những tảng đá xinh đẹp biết bao
khi ta nắm chúng trong tay
và nhìn chúng chầm chậm.

Người đã nói với tôi nhiều điều xấu về Đức Chúa Trời.
Người nói rằng đó là một ông già ngu ngốc và đau yếu,
luôn luôn khạc nhổ xuống đất
và nói những điều tục tằn.
Đức Nữ Đồng trinh Maria ngồi đan vớ len những buổi tối ở cõi đời đời
và Chúa Thánh thần gãi mỏ,
khi đậu trên những chiếc ghế bành mà Ngài vấy dơ.
Mọi sự trên trời đều xuẩn ngốc như Hội thánh Thiên Chúa.
Người nói với tôi rằng Đức Chúa Trời không còn hiểu gì hết nữa
với mọi vật Ngài tạo ra —
«ấy là giả như Ngài tạo ra chúng, điều mà ta lấy làm khả nghi » —
«chẳng hạn như Ngài nói vạn vật ngợi ca vinh quang Ngài,
nhưng vạn vật nào có ca.
Nếu chúng ca, chúng đã là ca sĩ.
Mọi vật hiện hữu, có thế thôi, chấm hết,
và bởi thế chúng có tên là mọi vật.»
Tới đây mỏi mệt vì nói xấu Đức Chúa Trời,
Chúa Hài đồng thiếp đi trong tay tôi
và như thế tôi bồng Chúa về nhà.

Chúa ở với tôi trong căn nhà của tôi ở lưng đồi.
Người là Em bé Muôn thủa, Đức Chúa mà chúng ta vẫn thiếu.
Người là con người thật tự nhiên,
Người là thần linh biết cười và nô đùa.
Đó là lý do mà tôi biết chắc
Người là Chúa Hài đồng thực sự.
Và con trẻ thật người đến trở thành thần linh,
chính là cuộc sống thường ngày thi sĩ mà tôi đeo đuổi,
và chính bởi lúc nào con trẻ ấy cũng ở bên tôi nên lúc nào tôi cũng là thi sĩ,
và cái nhìn nhỏ nhặt nhất của tôi
cũng khiến tôi tràn đầy cảm giác,
và âm thanh bé mọn nhất, bất kỳ từ đâu tới,
cũng dường như nói với riêng tôi.

Em bé Mới sống ở nhà tôi
một tay nắm lấy tay tôi
và tay kia nắm lấy tất cả những gì hiện hữu
và như thế cả ba chúng tôi cùng bước trên con đường vô định,
lúc nhảy lúc ca lúc cười cợt
hoàn toàn vui với điều bí mật mà chúng tôi cùng chia sẻ
là biết rằng ở khắp nơi
không có sự huyền bí nào trên thế giới này
và hết thảy mọi sự đều đáng sống.

Luôn luôn ở bên tôi là «Em bé Muôn thủa».
Hướng nhìn của tôi, chính ngón tay Người chỉ đường,
Thính quan tôi hân hoan để ý tới mọi âm thanh,
Chính là Người đã đùa nghịch ngoáy vào tai tôi đó.

Chúng tôi thật ăn ý với nhau
ở bên nhau trong mọi chuyện
đến chẳng bao giờ nghĩ tới nhau
mà vẫn sống khít khao và phân biệt
trong hòa hợp mật thiết
như tay phải và tay trái.
Khi chiều tới chúng tôi chơi tung hấng trên mu bàn tay
ở bậc cửa trước nhà,
thật nghiêm nghị, như xứng với một vị thần linh và một thi sĩ
và như thể mỗi mẩu đá
là cả một vũ trụ
và bởi đó mà để rơi xuống đất
thật hết sức nguy hiểm cho nó.

Sau đó tôi kể cho Người nghe những chuyện chỉ có nơi loài người
và Người mỉm cười, vì tất cả thật không sao tin nổi.
Người cười các ông vua và những kẻ không phải vua,
Người đau lòng khi nghe nói đến những cuộc chiến tranh,
đến chuyện buôn bán, đến những con tàu lớn
chỉ còn lại có khói trong khoảng không ngoài biển khơi.
Vì Người biết tất cả những điều đó đã lỗi phạm tới chân lý
cái chân lý mà bông hoa từng biết lúc nở ra
cái chân lý đi kèm theo với ánh sáng mặt trời
khi nó đổi thay cảnh trí những vùng núi non và thung lũng
và làm chói mắt ta bởi quá nhiều lớp vôi quét trên những mặt tường.

Sau đó Người thiếp đi và tôi cho Người ngủ.
Tôi ôm Người trong tay vào tới trong nhà
và tôi đặt Người nằm ngủ, thay quần áo cho Người chầm chậm
như theo một lễ nghi thật rõ rệt
và hết sức âu yếm cho tới khi Người trần truồng.

Thế rồi Người ngủ trong hồn tôi
và ban đêm đôi khi Người thức dậy
và nô đùa với những giấc mộng của tôi.
Có những giấc mộng, Người xoay ngã quay lơ;
có những giấc mộng khác, Người chất chồng lộn bậy
và Người vỗ tay một mình
khe khẽ cười tôi ngủ nghê.

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Khi tôi chết, hỡi cậu bé tí hon của tôi,
xin hãy cho tôi, cho tôi được là đứa trẻ, đứa trẻ nhỏ nhất…
Xin hãy ôm lấy tôi trong tay
và đem tôi vào nhà của cậu.
Xin hãy cởi bỏ cho tôi cái vỏ người mỏi mệt
và hãy đặt tôi nằm xuống giường của cậu.
Rồi hãy kể cho tôi những câu chuyện, nếu tình cờ tôi trở giấc
để tôi có thể ngủ lại —
và hãy cho tôi được nô đùa với những giấc mơ của cậu
cho tới khi xuất hiện một ngày
duy có mình cậu biết.

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Đó câu chuyện Chúa Hài đồng của tôi.
Vì lý do nào hiểu được
nó lại chẳng thực hơn
là tất cả những gì các triết gia suy tưởng
và tất cả những gì các tôn giáo giảng dậy?

IX

Tôi là một người chăn giữ đàn thú.
Đàn thú đây là những ý nghĩ của tôi
và những ý nghĩ của tôi đều là những cảm giác.
Tôi nghĩ bằng mắt và bằng tai
bằng tay và bằng chân
bằng mũi và bằng miệng.

Suy tưởng một bông hoa là nhìn thấy nó và hít thở nó
và ăn một trái cây là biết mùi vị nó.

Cũng bởi thế mà khi, vào một ngày nắng ấm
cảm thấy mình buồn vì vui hưởng dường ấy,
tôi nằm dài ra trong cỏ,
và khép đôi mắt bỏng cháy,
tôi cảm thấy toàn thân nằm trong thực tại,
tôi biết sự thật và tôi hạnh phúc.

X

«Hỡi người chăn giữ đàn thú
ở bên đường kia,
gió đã nói gì với anh khi gió đi qua?»

«Gió nói mình là gió, và gió đi qua,
gió đã đi qua
và gió còn qua nữa.
Còn anh, gió đã nói gì với anh?»

«Gió nói với tôi nhiều hơn thế.
Gió nói với tôi về nhiều chuyện khác,
về những kỷ niệm và những luyến tiếc,
và những điều chưa bao giờ có.»

«Anh chưa bao giờ nghe gió đi qua.
Gió chỉ nói về gió.
Những gì anh nghe nó nói đều là dối trá,
và sự dối trá ở trong anh.»

XI

Bà nọ có cây đàn dương cầm
cây đàn thật thú vị nhưng không phải là dòng nước sông trôi
cũng chẳng phải là tiếng cây thì thầm…

Tại sao ta lại cần phải có đàn dương cầm?
Tốt hơn cả là nên có đôi tai
và yêu mến Thiên nhiên.

XII

Các mục tử của Virgile đã sử dụng ống tiêu và những nhạc cụ khác
và ca hát về tình yêu một cách thật văn chương.
(Kế đến—tôi , tôi chưa bao giờ đọc Virgile;
mà tại sao tôi lại phải đọc Virgile kia chứ?)

Thế nhưng các mục tử của Virgile, tội nghiệp họ, chính là Virgile,
và Thiên nhiên vẫn đẹp và xưa không kém.

XIII

Nhẹ nhàng, nhẹ nhàng, rất nhẹ nhàng,
một cơn gió rất nhẹ lướt qua
và đi mất, vẫn nhẹ nhàng;
tôi, tôi không biết mình nghĩ gì
cũng chẳng tìm cách biết.

XIV

Đối với tôi âm vận không quan trọng mấy. Thật họa hoằn
mới có hai cội cây ở cạnh bên nhau lại giống hệt nhau.
Tôi suy tưởng và tôi viết như những bông hoa có sắc màu
nhưng không được hoàn hảo cho bằng, trong cách thức tôi diễn tả
là vì tôi thiếu sự giản đơn kỳ diệu:
hoàn toàn ở bên ngoài bản thân và không là gì hơn thế.

Tôi nhìn và tôi rung động.
Tôi rung động như nước chảy trên một triền đất dốc.
Và thơ tôi tự nhiên như gió nổi.

XV

Bốn bài ca tiếp theo đây
tách rời khỏi những gì tôi nghĩ,
chúng trái với tất cả những gì tôi cảm thấy,
chúng đối nghịch với chính bản thân tôi…

Tôi đã viết ra chúng khi tôi đau yếu
và bởi thế mà chúng tự nhiên
và hòa hợp với những gì tôi cảm thấy,
chúng hòa hợp với những gì chúng bất hòa…

Khi đau yếu tôi hẳn nghĩ tới điều ngược lại
với những gì tôi nghĩ khi tôi mạnh khỏe
(nếu không tôi đã chẳng đau yếu),
tôi hẳn đã cảm thấy điều trái ngược với những gì tôi cảm thấy
khi tôi mạnh giỏi,
tôi hẳn đã làm sai với bản tính tự nhiên
của con người phải cảm nhận một cách nào đó…
tôi hẳn đã đau yếu trọn vẹn—tư tưởng và hết thảy.
Khi tôi đau yếu tôi không đau yếu vì một chuyện gì khác.

Chính vì thế mà những bài ca này những bài ca phủ nhận tôi
không có khả năng phủ nhận tôi,
và chúng chỉ là cảnh sắc tâm hồn tôi về đêm
cùng một tâm hồn nhưng đảo ngược lại…

XVI

Giá đời tôi chỉ là một cỗ xe bò
kẽo kẹt trên con đường lang bạt, từ sáng sớm,
và trở lại điểm khởi hành
qua cùng một con đường, vào lúc nhá nhem…

Tôi sẽ không cần những đợi trông—tôi sẽ chỉ cần những vòng bánh…
Tuổi già tôi sẽ không có những vết nhăn cũng chẳng có tóc bạc…
Khi tôi không còn dùng được nữa, người ta sẽ gỡ những bánh xe
và tôi, bị lật xô và rã rời từng mảnh, sẽ ở lại dưới lòng khe.

XVII

Trong dĩa ăn của tôi ôi đủ thứ trộn lộn của Thiên nhiên!
Những cây cỏ chị em tôi,
bạn bè những dòng suối, các vị nữ thánh
mà không ai cầu khẩn…

Người ta đã cắt các thức đó và bây giờ chúng nằm trên bàn ăn của chúng ta
và trong các khách sạn những khách hàng cao giọng,
những kẻ đặt chân tới với những dây đai và áo khoác da sặc sỡ,
gọi «sà-lách» thật hững hờ…,
mà chẳng hề nghĩ là mình đòi hỏi Đất-Mẹ
sự tươi mát và lớp cây cỏ đằu mùa,
những lời xanh tươi đầu tiên mà Mẹ thốt ra,
những sự vật đầu tiên lóng lánh ngũ sắc
mà Noê từng thấy
khi cơn hồng thủy hạ xuống và những đỉnh núi
trồi lên xanh mướt
và khi ở không trung nơi cánh bồ câu xuất hiện
in hình chiếc mống với độ sắc giảm lần…

XVIII

A, giá tôi là hạt bụi trên đường,
mà những người nghèo khó dẵm dưới chân…

Giá tôi là những dòng sông trôi
với những người đàn bà giặt giũ trên bờ…

Giá tôi là hàng liễu rủ bên sông,
chỉ có trời bên trên và nước dưới chân…

Giá tôi là con lừa của người chủ nhà say bột
kẻ đánh đập tôi mà vẫn thương tôi…

Thà như thế còn hơn là kẻ trải qua cuộc sống
còn nhìn lại phía sau với nỗi muộn phiền trong tim…

XIX

Khi ánh trăng rọi tới bãi cỏ non,
tôi không rõ nó nhắc tôi nhớ tới những gì…
Nó nhắc tôi nhớ tiếng nói chị vú già
người thường kể cho tôi những câu chuyện thần tiên.
Và bằng cách nào Đức Bà đã khoác áo người hành khất
đi trên đường ban đêm
tới cứu giúp những đứa trẻ bị ngược đãi.

Nếu tôi không còn tin được là tất cả những chuyện đó có thật
thì tại sao ánh trăng lại rọi tới bãi cỏ non?

XX

Sông Tage đẹp hơn con sông chảy qua làng tôi,
nhưng sông Tage không đẹp hơn con sông chảy qua làng tôi,
bởi sông Tage không phải là con sông chảy qua làng tôi.

Sông Tage mang những con tàu lớn
và tới nay ở đó vẫn còn trôi,
với những người nhìn đâu cũng thấy những gì không có,
kỷ niệm về những con tàu xưa.

Sông Tage từ Tây-ban-nha đổ xuống
và sông Tage lao mình ra biển ở Bồ-đào-nha.
Mọi người đều biết thế.
Nhưng rất ít người biết con sông ở làng tôi là con sông nào
và nó chảy đi đâu
và nó từ đâu tới.
Và chính bởi thế, bởi nó thuộc về ít người hơn,
mà con sông của làng tôi tự do hơn và lớn lao hơn.

Qua sông Tage người ta ra Thế giới.
Ở bên kia sông Tage là Mỹ châu
và sự giàu sang với những người tìm thấy nó.
Không ai từng nghĩ tới những gì có thể có
ở bên kia con sông của làng tôi.
Con sông của làng tôi không làm ta nghĩ tới gì hết.
Kẻ ở bên sông là ở bên sông, thế thôi.

XXI

Nếu tôi có thể nhai rau ráu toàn trái đất
và tìm ra một mùi vị,
hẳn là tôi sẽ sung sướng được một lúc…
Nhưng không phải lúc nào tôi cũng muốn hạnh phúc.
Thỉnh thoảng cũng cần phải khổ đau
để có thể được tự nhiên…

Vả lại không phải ngày nào trời cũng nắng,
và mưa, nếu thiếu nhiều thì người ta cầu đảo.
Bởi thế mà tôi vui lòng chấp nhận rủi ro,
một cách tự nhiên, như người không bỡ ngỡ
là có những núi cao và những đồng bằng
với cỏ non và đá tảng.

Điều cần thiết là phải biết tự nhiên và bình thản
trong hạnh phúc cũng như trong bất hạnh,
là cảm thấy như người ta nhìn ngắm,
là nghĩ suy như người ta cất bước
và trước cái chết, nhớ rằng ngày mất đi,
buổi hoàng hôn thật đẹp, và đêm ở lại tuyệt vời…
Bởi mọi sự là như thế, ước chi được như thế…

XXII

Như một người mở cửa nhà mình vào một ngày mùa hạ
và bằng tất cả khuôn mặt mình rình rập hơi nóng ngoài đồng,
chuyện xẩy tới là bỗng dưng tôi bị Thiên nhiên quất mạnh ngọn roi
vào khuôn mặt các giác quan tôi,
và tôi, tôi lấy làm bối rối và lẫn lộn,
ra sức tìm hiểu
không biết chuyện chi cũng chẳng biết ra sao…

Thế nhưng ai kia chứ đã muốn tôi tìm hiểu?
Ai kia chứ đã bảo tôi là có chuyện gì để hiểu?

Khi mùa hạ lùa qua trên khuôn mặt tôi
bàn tay nhẹ và nóng của cơn gió hiu hiu,
tôi chỉ việc cảm nhận cái khoan khoái đó là một cơn gió
hoặc cảm thấy bực bội vì nó nồng nực,
và, dù cho tôi có cảm nhận nó cách nào chăng nữa,
như thế đấy, bởi tôi cảm thấy thế, bổn phận tôi là phải cảm nhận nó.

XXIII

Xanh như trời xanh, cái nhìn tôi
cũng bình lặng như nước trôi ngoài nắng.
Nó như thế đấy, vừa xanh vừa bình lặng
và chẳng hỏi han cũng không sợ hãi…

Giả như tôi có tự tra vấn và hãi sợ,
đồng xanh cũng chẳng nảy sinh những bông hoa mới
và mặt trời cũng chẳng có sự biến đổi làm đẹp thêm…
(Mà ngay như đồng xanh có nảy sinh những bông hoa mới
và mặt trời có đẹp ra,
tôi cũng vẫn cảm thấy đồng cỏ ít hoa hơn
và vẫn thấy mặt trời xấu đi…
Bởi mọi sự có sao ra vậy, như thế đó,
và tôi, tôi chấp nhận, chẳng buồn cảm ơn
để khỏi tỏ ra là mình nghĩ tới…)

XXIV

Những gì ta nhìn thấy về mọi vật chính là mọi vật.
Tại sao ta lại nhìn thấy một vật nếu như ở đó có một vật khác?
Tại sao chuyện nhìn và nghe thấy lại là ảo tưởng,
nếu nhìn và nghe thấy là thực sự nhìn và nghe?

Điều thiết yếu là phải biết nhìn,
phải biết nhìn mà không lao đầu vào suy tưởng,
phải biết nhìn khi ta nhìn,
mà chẳng nghĩ suy khi ta nhìn
cũng chẳng nhìn khi ta suy nghĩ.

Nhưng điều đó (tội nghiệp chúng ta những kẻ vướng víu với hồn thiêng!)
điều đó đòi hỏi một cuộc nghiên cứu sâu xa,
bao học tập khoa học cần gỡ bỏ
và tự giam mình vào tự do của cái tu viện
mà các tu sĩ mô tả các vì sao như những nữ tu vĩnh cửu
và những bông hoa như những kẻ sám hối phù du không kém gì sùng tín,
nhưng là nơi cuối cùng các vì sao chỉ là các vì sao
và những bông hoa chỉ là những bông hoa,
và bởi thế mà ta kêu chúng bằng các vì sao và những bông hoa.

XXV

Những bong bóng xà-phòng mà đứa trẻ này
vui đùa thổi ra từ một cọng rơm
là cả một triết lý trong cái trong trẻo của chúng.
Trong trẻo, vô dụng và thoáng qua như Thiên nhiên,
thân thiết với mắt ta như mọi vật,
chúng chỉ là chúng,
với một nét chính xác bầu bĩnh và thoáng nhẹ
và không một ai, cả đến đứa trẻ đang bỏ mặc chúng,
lại cho rằng chúng còn gì khác hơn là dáng vẻ phô bày.

Có những chiếc bong bóng lúc này không còn thấy rõ trong không khí sáng chói.
Chúng tựa như cơn gió nhẹ đi qua và động hờ những đóa hoa
và ta biết là gió đã đi qua, chỉ
vì có điều gì đó trong ta nhẹ bớt
và chấp nhận tất cả dứt khoát hơn.

XXVI

Đôi khi, vào những ngày có ánh sáng hoàn hảo và chính xác,
vào những ngày mà sự vật có tất cả cái hiện thực có thể có,
tôi khe khẽ tự hỏi chính mình
tại sao tôi, tôi cũng yếu đuối khi gán ghép
cái đẹp cho sự vật.

Cái đẹp, một bông hoa tình cờ có thể có?
Một trái cây cũng tình cờ có cái đẹp?
Không, chúng có sắc màu, hình dạng
và hiện hữu thế thôi.
Đẹp là tên của một cái gì không có
mà tôi đem gán cho sự vật để đổi lấy cái thú vị chúng cho tôi.
Điều ấy không có nghĩa gì.
Vậy thời tại sao tôi lại nói về sự vật là chúng đẹp?

Phải, ngay cả tôi, kẻ chỉ sống bằng sống,
thật vô hình, những dối trá của con người cũng tìm tới với tôi
trước những sự vật,
trước những sự vật chỉ hiện hữu thế thôi.

Thật khó là mình và chỉ thấy những gì thấy được.

XXVII

Chỉ có thiên nhiên là thần thánh, và thiên nhiên không phải thần thánh…

Nếu tôi nói về thiên nhiên như nói về một người,
thì chính bởi muốn nói về thiên nhiên, tôi cần phải dùng tới ngôn ngữ loài người,
thứ ngôn ngữ cho sự vật một nhân cách
và ép buộc mọi vật phải có tên.

Nhưng mọi vật không có tên và nhân cách:
chúng hiện hữu, và trời thì cao và đất thì rộng,
và trái tim ta vừa bằng một nắm đấm…

Phước cho tôi vì tất cả những gì tôi biết.
Tôi vui sướng vì hết thảy điều đó như một người biết mặt trời hiện hữu.

XXVIII

Hôm nay tôi đọc được gần hai trang sách
của một thi sĩ thần bí,
và tôi đã cười như một kẻ từng khóc nhiều.

Các thi sĩ thần bí là những triết gia đau yếu,
và các triết gia là những người điên.

Bởi các thi sĩ ấy bảo hoa có cảm giác,
đá có linh hồn
và những dòng sông lịm ngất dưới trăng.

Nhưng hoa, nếu có cảm giác, đã chẳng phải là hoa,
mà chính là người ta;
và nếu đá có linh hồn, thì hẳn đã là những vật sống động, chứ không phải đá;
và nếu những dòng sông ngất lịm dưới trăng,
thì chúng hẳn là những người đau yếu.

Phải cố tình không biết tới những gì là hoa, là đá và sông,
mới nói tới những tình cảm của chúng.
Nói tới hồn của đá, của hoa, của sông,
là nói tới chính bản thân và những ý nghĩ sai lầm của mình.
Nhờ Trời đá vẫn chỉ là đá
và sông vẫn chỉ là sông
và hoa cũng vẫn chỉ là hoa.

Phần tôi, tôi viết văn xuôi của thơ tôi
và hết sức hài lòng vì thế,
bởi tôi biết rằng tôi hiểu Thiên nhiên từ bên ngoài;
chứ tôi không hiểu Thiên nhiên từ bên trong
là vì Thiên nhiên không có cái bên trong—
nếu không, nó đã chẳng phải là Thiên nhiên.

XXIX

Tôi không phải bao giờ cũng là một trong những gì tôi nói và tôi viết
tôi thay đổi, nhưng chẳng hề thay đổi.
Màu sắc của hoa dưới ánh sáng mặt trời chẳng phải là một
như khi có mây qua
hay khi đêm xuống
và hoa mang màu bóng tối.

Nhưng kẻ nhìn kỹ ắt thấy rõ hoa vẫn là một hoa ấy.
Bởi thế nên khi tôi có vẻ không hòa hợp với chính mình,
xin hãy quan sát tôi thật kỹ:
nếu lúc nãy tôi quay về bên phải
thì lúc này tôi quay về bên trái,
nhưng tôi vẫn là tôi, vẫn đứng thẳng trên một đôi chân—
vẫn là một tôi, nhờ trời và nhờ đất,
nhờ đôi mắt và đôi tai chăm chú
và nhờ sự giản đơn trong sáng của tâm hồn…

XXX

Nếu người ta muốn rằng tôi phải có một chủ trương thần bí, thì được lắm, tôi có đấy.
Tôi là kẻ chủ trương thần bí, nhưng chỉ với xác thân.
Tâm hồn tôi thật giản đơn và không suy nghĩ.

Chủ trương thần bí của tôi nằm trong sự không tìm biết.
Nó gồm có sống và không nghĩ tới.

Tôi không biết Thiên nhiên là gì: tôi ngợi ca Thiên nhiên.
Tôi sống trên một đỉnh đồi
trong một ngôi nhà quét vôi trắng và vắng vẻ,
và ấy là điều xác định tôi.

XXXI

Nếu đôi khi tôi nói những bông hoa mỉm cười
và nếu có khi tôi lại nói những dòng sông ca hát,
thì không phải là tôi tin rằng trong những bông hoa có những nụ cười
và trên những dòng sông có những khúc ca…
Mà chính vì làm như thế tôi khiến cho những người giả trá cảm thấy rõ thêm
sự hiện hữu đích thực là thật của những dòng sông và những bông hoa…

Bởi tôi viết cho họ đọc nên đôi khi tôi hy sinh
cho những phản ứng thô kệch của họ…
Tôi không đồng ý với chính mình, nhưng tôi xá tội cho tôi
là vì tôi là điều nghiêm trọng này: một kẻ thông dịch Thiên nhiên,
là vì có những người không hiểu ngôn ngữ của Thiên nhiên,
xét rằng Thiên nhiên không hề có ngôn ngữ.

XXXII

Tối hôm qua có một người ở thành thị
tới nói trước cửa lữ quán.
Anh cũng nói với tôi nữa.
Anh nói về lẽ công bằng và về cuộc đấu tranh đang tiếp diễn để công bằng ngự trị
anh nói về các công nhân đang đau khổ
và nói về lao động triền miên, về những người đói khát,
và những người giàu có, những kẻ duy nhất có số đỏ…

Và lúc ấy, nhìn tôi, anh thấy mắt tôi rướm lệ
anh mỉm cười khoan khoái, nghĩ rằng tôi cảm thấy
nỗi buồn phiền mà chính anh, anh cảm thấy, và sự xót thương
anh nói là mình cảm thấy.

(Nhưng tôi, tôi nào có nghe anh nói.
Quan hệ gì với tôi, thiên hạ
và những gì họ khổ đau hoặc tin là mình đau khổ?
Họ hãy như tôi—và sẽ không còn khổ nữa.
Tất cả sự xấu của thế giới này là do chính chúng ta tự khuấy nhiễu lẫn nhau
hoặc để làm điều tốt hoặc để làm chuyện xấu,
tâm hồn ta và trời và đất đã đủ.
Muốn hơn nữa là để mất tất cả, và lao đầu vào khốn nạn.)

Điều mà tôi, tôi nghĩ tới
trong lúc người bạn của nhân loại kia nói
(và chuyện đó đã khiến tôi xúc động tới ứa nước mắt),
cũng tựa như tiếng thì thầm ở xa xăm của đá cuội
vào lúc cuối ngày này
chẳng hề giống những tiếng chuông của một ngôi nhà nguyện
nơi dự lễ mi-sa của những bông hoa và những dòng suối
và những tâm hồn đơn giản như tâm hồn tôi.

(Ngợi khen Thượng đế vì tôi không phải là người tốt
và tôi có sự ích kỷ tự nhiên của những bông hoa
và những dòng sông đang theo đuổi con đường của chúng
bận bịu mà không hay
với một chuyện duy nhất là nở hoa và trôi đi.
Ấy đó, sứ mạng duy nhất của Thế giới,
sứ mạng hiện hữu thật trong sáng
và biết thực hiện điều đó mà không nghĩ tới.)

Và người kia lúc này đã im tiếng, đôi mắt hướng về phía mặt trời lặn.
Nhưng giữa phía mặt trời lặn với kẻ ghét và yêu có gì liên hệ?

XXXIII

Tội nghiệp những bông hoa trong những bồn hoa của những khu vườn ngang bằng đều đặn.
Chúng có vẻ sợ cảnh sát…
Nhưng chúng đẹp đến nỗi chúng vẫn nở cùng một cách
và vẫn có cùng một nụ cười xưa
như nụ cười đã có trước cái nhìn đầu tiên của con người đầu tiên hết
đã thấy chúng xuất hiện và khẽ chạm tới chúng
để xem chúng có biết nói…

XXXIV

Tôi thấy chuyện người ta không suy nghĩ là quá tự nhiên
đến nỗi đôi khi tôi bỗng dưng cười một mình,
tôi không rõ là mình cười gì, nhưng đúng là về một điều gì đó
có liên hệ ít nhiều tới câu chuyện có những người nghĩ suy…

Bức vách nhà tôi kia, nó có thể nghĩ gì về chiếc bóng của tôi?
Đôi khi tôi tự hỏi như thế, cho tới khi chợt thấy
là mình đang tự đặt những câu hỏi…
Tôi đâm bất mãn với chính mình và cảm thấy ngượng ngập
như nhận ra là mình hiện hữu với một chân lạnh cóng…

Cái này có thể nghĩ gì về cái kia nhỉ?
Không có cái gì nghĩ gì hết.
Trái đất có ý thức hay chăng về những tảng đá và những cội cây mang trên mình?
Nếu quả có thế thì được lắm!
Quan hệ gì tới tôi?
Giả như tôi có nghĩ về những chuyện ấy,
thì hẳn là tôi không còn thấy được mọi thứ cây lớn, nhỏ
và tôi thôi không còn thấy Trái đất,
để chỉ thấy những ý nghĩ của riêng tôi…
Tôi sẽ buồn và ở lại trong u sầu.
Nhưng như thế, không nghĩ suy, tôi có cả Trời lẫn Đất.

XXXV

Ánh trăng chiếu xuyên qua những cành cao,
toàn bộ các thi sĩ nói, còn có nhiều điều hơn
là ánh trăng chiếu xuyên qua những cành cao.

Nhưng với tôi, kẻ chẳng biết mình nghĩ gì,
điều mà ánh trăng chiếu xuyên qua những cành cao
còn có thêm với chuyện nó là
ánh trăng chiếu xuyên qua những cành cao,
chính là không là gì khác hơn
là ánh trăng chiếu xuyên qua những cành cao.

XXXVI

Cứ nghĩ tới có những thi sĩ cũng là những nghệ sĩ
mà vất vả với những vần thơ
như một người thợ mộc trên tấm ván!…

Thật là buồn khi không biết nở hoa!
Khi phải đặt từng vần thơ này đến vần thơ khác, như kẻ xây bức tường,
rồi xem có đứng vững hay không, và loại bỏ nếu không đứng vững!…
trong lúc ngôi nhà nghệ thuật duy nhất là toàn Trái đất
trái đất đổi thay, vẫn mạnh giỏi và vẫn là một trái đất.

Tôi nghĩ tới điều đó, không phải như người ta nghĩ, mà như người ta hít thở,
và tôi nhìn những bông hoa, tôi mỉm cười…
Tôi không biết hoa có hiểu tôi
cũng chẳng hay tôi, tôi có hiểu chúng,
nhưng tôi biết rằng sự thật ở trong hoa và trong tôi
và trong đặc ân của Thượng đế đã ban chung cho chúng ta
là để chúng ta đi sống trên khắp cùng Trái đất
và để chúng ta được ôm trên tay của những Mùa hạnh phúc
và để gió cất tiếng ru chúng ta
và hủy đi trong giấc ngủ chúng ta mọi mộng mơ.

XXXVII

Như một bức tranh lem luốc khổng lồ bằng lửa
mặt trời tà lần lữa giữa những áng mây sững lại.
Một tiếng còi mơ hồ vẳng tới trong buổi chiều lặng lẽ.
Hẳn là tiếng còi tàu từ xa.

Giây phút này tôi bỗng thấy một nỗi buồn man mác
và mơ hồ một niềm ao ước êm đềm
xuất hiện và tan biến.

Đôi khi, trôi theo những dòng suối
cũng có những chiếc bọt tụ lại trên mặt nước
những chiếc bọt sinh ra và tan đi—
và không có một ý nghĩa nào khác
hơn là những bọt nước
sinh ra và tan đi.

XXXVIII

Cảm tạ cùng một vầng mặt trời của những miền xa xăm khác
đã khiến tôi trở thành anh em của hết thảy mọi người,
bởi hết thảy mọi người, vào một lúc nào đó trong ngày, cũng đã nhìn mặt trời như tôi
và trong cái lúc tinh khiết ấy
hoàn toàn thanh thản và thân ái ấy,
họ trở lại với nỗi đớn đau
và một tiếng thở dài khó lòng nhận thấy
đối với Con Người đích thực và nguyên thủy
kẻ đã nhìn thấy Mặt trời sinh ra và chưa tôn thờ Mặt trời.
Bởi vì điều đó thật tự nhiên—tự nhiên hơn
là tôn thờ vàng và Thượng đế
và nghệ thuật và đạo đức…

XXXIX

Lẽ huyền bí của mọi vật, vậy thời nó ở đâu?
Vậy thời nó ở đâu mà chẳng hề xuất hiện
để ít ra cũng cho ta thấy nó là lẽ huyền bí?
Dòng sông biết gì về lẽ huyền bí ấy và cội cây biết gì?
Và tôi, kẻ không hơn gì chúng, tôi biết gì?
Mỗi khi nhìn mọi vật và nghĩ tới những gì mọi người nghĩ về chúng,
tôi lại cười như một con suối róc rách thật tươi mát trên một tảng đá.

Bởi ý nghĩa bí ẩn duy nhất của mọi vật,
chính là chúng chẳng hề có một ý nghĩa bí ẩn nào hết.
Điều lạ lùng hơn hết thảy mọi sự lạ lùng,
hơn những giấc mộng của hết mọi thi sĩ
và hơn những tư tưởng của hết mọi triết gia,
là mọi vật thực sự là những gì chúng phô bày
và ở đó không có gì để hiểu.

Phải, đây là những gì các giác quan tôi tự chúng đã học biết: —
mọi vật không hàm nghĩa: chúng hiện hữu.
Mọi vật là ý nghĩa bí ẩn duy nhất của mọi vật.

XL

Trước mặt tôi lướt qua một con bướm
và lần đầu tiên trong Vũ trụ tôi nhận ra
loài bướm không có màu sắc cũng chẳng có chuyển động
cũng như bông hoa không có mùi hương cũng chẳng có sắc màu.
Chính màu sắc tô màu trên đôi cánh bướm,
trong chuyển động của bướm chính chuyển động chuyển động,
chính mùi hương tỏa hương trong mùi hương của hoa.
Con bướm chỉ là con bướm
và bông hoa chỉ là bông hoa.

XLI

Đôi khi, vào lúc ngày tàn, mùa hạ
khi chưa có lấy một cơn gió, thì dường như
chỉ trong khoảnh khắc thoảng qua một làn hơi rất nhẹ…
Nhưng hàng cây vẫn đứng im
với tất cả những chiếc lá của chúng
và các giác quan ta cảm thấy một ảo tưởng
cái ảo tưởng về một sự vật hẳn đã phải làm chúng say mê…

A, các giác quan, những người bệnh nhìn thấy và nghe thấy!
Giá chúng ta có thể thực sự hiện hữu như lẽ ra chúng ta phải thế,
thì hẳn chúng ta đã chẳng cần tới ảo tưởng…
Ta chỉ việc cảm thấy với một nhận định thật rõ rệt
mà chẳng cần quan tâm tới việc sử dụng các giác quan…

Nhưng nhờ Trời mới có sự bất toàn trên Thế giới,
bởi bất toàn là một sự vật,
và chuyện có những kẻ lầm lạc là độc đáo,
và chuyện có những người đau yếu khiến cõi đời này thật dễ chịu.
Nếu không có sự bất toàn thì sẽ thiếu một sự vật
và phải có khá nhiều sự vật thay thế
để chúng ta có nhiều thứ để nhìn thấy và nghe.

XLII

Cỗ xe ngựa chạy qua trên đường, rồi đi khỏi;
con đường cũng chẳng vì thế mà đẹp thêm hoặc xấu đi.
Mọi hành động con người trên cõi đời rộng lớn này cũng thế.
Chúng ta chẳng rút ra được gì, cũng chẳng thêm được gì; chúng ta qua và chúng ta quên;
và mặt trời vẫn đúng hẹn hết mọi ngày.

XLIII

Thà như cánh chim bay qua không để lại dấu tích,
còn hơn con thú đi qua mà dấu chân trên nền đất còn in.
Cánh chim qua và quên, đúng như điều phải thế.
Con thú, ở nơi nó bỏ đi và không còn nữa, hoàn toàn vô ích,
chứng tỏ là mình mới vừa ở đó, cũng chẳng ích lợi gì.

Tưởng niệm là một bội phản đối với Thiên nhiên,
vì Thiên nhiên hôm qua không phải là Thiên nhiên.
Những gì đã qua không là gì hết, và tưởng nhớ là không nhìn thấy.

Qua đi, hỡi chim, qua đi, và dạy ta qua!

XLIV

Đột nhiên tôi thức dậy ban đêm
và chiếc đồng hồ của tôi choán mất trọn đêm.
Tôi không còn cảm thấy Thiên nhiên ở bên ngoài.
Căn buồng của tôi là một vật tối tăm với những bức vách mơ hồ trắng.
Bên ngoài là một sự bình yên như không có gì hiện hữu.
Duy chiếc đồng hồ vẫn tích tắc tích tắc
và cái vật nho nhỏ có những guồng máy mắc míu nhau nằm trên bàn tôi đây
bóp ngạt mọi hiện hữu của trời và đất…
Tôi gần như lạc mất khi nghĩ tới ý nghĩa của sự việc,
nhưng tôi dừng lại ngay, và trong đêm cảm thấy mình nhếch mép cười,
là vì điều duy nhất mà chiếc đồng hồ của tôi là tượng trưng hay hàm nghĩa
khi dùng cái nhỏ nhoi của mình làm đầy đêm to lớn
chính là cái cảm giác kỳ quặc làm đầy đêm to lớn
bằng cái nhỏ nhoi của mình…

XLV

Một rặng cây ở xa xa dưới kia, dưới kia về phía ngọn đồi nhỏ.
Nhưng một rặng cây là gì? Là những cây, thế thôi.
Rặng và số nhiều những cây không phải là sự vật, ấy là những cái tên.

Thảm hại thay con người đâu đâu cũng sắp đặt thứ tự,
vẽ vạch những đường nét từ vật này tới vật khác,

đặt những tấm bảng ghi tên trên những cội cây hoàn toàn có thật,
và vẽ vạch những đường song song của vĩ và kinh độ
cả trên trái đất, trái đất thật vô tội và xanh hơn hết thảy!

XLVI

Bằng cách này hay cách khác,
tùy như chuyện xẩy ra có nhằm lúc hay không,
đôi khi có khả năng nói những gì tôi suy tưởng,
và khi khác lại nói ra thật dở và không được tinh khiết,
tôi viết những vần thơ tôi một cách không cố ý,
như thể hành động viết không phải là một việc làm bằng những cử động,
như thể là chuyện viết là một điều xẩy tới với tôi
như tắm nắng.

Tôi tìm cách nói những gì tôi cảm thấy
mà không nghĩ tới những gì tôi cảm thấy.
Tôi tìm cách tán trợ ngôn từ chống với ý niệm
và không cần tới cái hành lang
của suy tưởng để dẫn đưa tới lời nói.

Không phải bao giờ tôi cũng cảm thấy được những gì tôi biết là mình phải cảm thấy.
Suy tưởng tôi lội qua sông thật chậm rãi
là vì trên mình nó đè nặng những áo quần mà người ta ép buộc nó phải mang.
Tôi tìm cách tước bỏ những gì tôi đã học,
tôi tìm cách quên đi lối suy tưởng mà người ta đã nhồi nhét,
cạo bỏ vết mực người ta đã dùng để bôi bẩn các giác quan tôi,
rút ra những cảm giác thực sự của tôi,
tháo gỡ tôi ra và trở lại với bản thân—không phải là Alberto Caeiro
mà là một động vật có nhân tính do Thiên nhiên sản sinh.

Và thế là tôi viết, ao ước mình cảm thấy Thiên nhiên, dẫu không phải như một con người cảm thấy,
mà như kẻ cảm thấy Thiên nhiên, thế thôi.
Tôi viết như thế đó, khi hay khi dở,
khi thì động tới mà không đập mạnh vào những gì tôi muốn diễn tả và khi thì lầm lạc,
té xuống ở đây, và chỗi dậy ở kia,
nhưng vẫn tiếp tục con đường của tôi như một người mù bướng bỉnh.

Có hề gì… Và dẫu sao thì tôi cũng là một ai đó.
Tôi là người Khám phá Thiên nhiên.
Tôi là kẻ Chinh phục những cảm giác thật.
Với Vũ trụ, tôi đem lại một Vũ trụ mới
là vì tôi đem lại cho Vũ trụ chính Vũ trụ.
Điều đó tôi cảm thấy và tôi viết ra,
hoàn toàn rõ mà không cần nhìn tới,
là đã năm giờ sáng
và mặt trời chưa ló đầu lên
trên bức tường chân trời,
dẫu như thế người ta vẫn phân biệt được mấy đầu ngón tay của nó
đang bấu lấy mảnh tường cao
của chân trời đầy những ngọn núi thấp.

XLVII

Vào một ngày quá rõ rệt,
một ngày mà người ta chỉ muốn mình đã làm việc thật nhiều
để có thể không làm gì vào ngày ấy,
tôi chợt thấy, tựa như một lối đi giữa những hàng cây,
điều có lẽ là niềm Bí ẩn lớn,
sự Huyền bí vĩ đại mà các ngụy thi sĩ thường nói tới.

Tôi thấy rằng không có Thiên nhiên,
rằng Thiên nhiên không hiện hữu,
rằng có những núi, những thung, những đồng bằng,
rằng có những cây, những hoa, những cỏ,
rằng có những dòng sông và những tảng đá,
nhưng không có một toàn thể mà những thứ kia là thành phần,
rằng một toàn bộ có thật và thực sự
chỉ là một căn bệnh của suy tưởng chúng ta

Thiên nhiên làm bằng những phần không hợp thành một toàn thể.
Có lẽ đây là sự huyền bí tiếng tăm mà người ta nói tới.
Ấy là điều mà không suy nghĩ cũng không chậm trễ
tôi nhận ra, điều hẳn là sự thật
mà mọi người đang kiếm tìm, và không thấy,
điều mà mình tôi, chẳng hề tìm kiếm, tôi đã thấy.

XLVIII

Từ khung cửa sổ cao nhất trong nhà
vẫy chiếc khăn tay trắng tôi nói lời từ giã
những vần thơ tôi, những vần thơ đi về với nhân loại.

Và tôi không vui cũng không buồn.
Ấy là định mệnh của những vần thơ.
Tôi đã viết chúng ra và tôi phải cho mọi người thấy
là vì tôi không thể sử dụng chúng cách nào khác,
hệt như bông hoa không thể che giấu sắc màu,
như dòng sông không thể che giấu mình trôi,
như cội cây không thể che giấu mình sinh ra trái.

Kìa những vần thơ ấy đã rời xa như lên cỗ xe
và tôi bất đắc dĩ cảm thấy buồn phiền
như một nỗi đớn đau trong cơ thể.

Ai biết được người nào sẽ đọc chúng?
Ai biết được chúng sẽ rơi vào những bàn tay nào?
Là hoa, định mệnh tôi đã hái tôi cho những con mắt.
Là cây, người ta đã giựt đứt những trái của tôi cho những miệng.
Là sông, định mệnh những dòng nước của tôi là không ở lại trong tôi.
Tôi tuân phục và tôi cảm thấy mình gần như vui sướng,
gần như vui sướng như một người đã chán cả buồn.

Đi đi, các ngươi hãy tách rời ta!
Cây qua đi và tản mát trong Thiên nhiên.
Hoa tàn tạ và chút bụi hoa còn mãi.
Sông trôi qua rồi lao mình vào biển cả và những dòng nước của nó vẫn mãi mãi là của nó.

Tôi qua đi và tôi còn đó, như Vũ trụ.

XLIX

Tôi trở về nhà, tôi khép cánh cửa sổ.
Người ta mang đèn lại, người ta chúc tôi ngủ ngon,
và bằng một giọng hài lòng tôi đáp ngủ ngon.
Cầu Trời cho đời tôi mãi mãi được như điều này:
ngày nắng sáng, hay mưa ngọt ngào
hay bão tố như gần Tận thế,
buổi chiều dịu êm với những nhóm người bước qua,
được chăm chú rõi theo từ cánh cửa,
cái nhìn thân thiết cuối cùng phóng lên những hàng cây bình yên,
rồi cánh cửa khép lại và ngọn đèn thắp lên,
không đọc sách, không nghĩ gì, không ngủ,
cảm thấy sự sống chảy trong mình như một dòng sông trong lòng sông
và bên ngoài, một niềm im lặng lớn tựa như một vị thần đang ngủ.

____
Ghi chú của người dịch:
ALBERTO CAEIRO (1889-1915), «nhà thơ duy nhất của Thiên nhiên» như ông đã tự nhận, sinh tại Lisboa, Bồ-đào-nha ngày 16 tháng Tư năm 1889 và mất vì lao phổi năm 1915, tác giả tập thơ Người chăn giữ đàn thú. Ông là một «dị danh» của Fernando Pessoa, và được tôn kính như «bậc thày» của chính Pessoa, Álvaro de Campos và Ricardo Reis,… (Xin xem thêm : “Fernando Pessoa và người thày của ông” đã đăng trên Tiền Vệ).

Người chăn giữ đàn thú của Alberto Caeiro có 3 phần, phần đầu mang tiểu đề «Người chăn giữ đàn thú» gồm 49 bài ghi số La-mã; phần nhì có tiểu đề «Người mục tử si tình» gồm 6 bài; và phần còn lại gồm 53 bài được xếp dưới tiểu đề «Những bài thơ rời». Các bài ở hai phần sau chỉ phân cách nhau bằng dấu hoa thị (*). Một dịch giả tiên khởi người Pháp đã cắt bớt một số bài ở phần 3 của tác phẩm vì không đồng ý với… tác giả! Các bài này đã được lập lại trọn vẹn ở đây, căn cứ vào nguyên tác và theo một số dịch giả kế tiếp cũng người Pháp.

Con số tác phẩm của Fernando Pessoa khui thêm trong chiếc rương ông để lại xuất hiện ngày càng nhiều; số dịch giả mới cũng thêm đông đảo. Tôi rất tiếc không còn ngày giờ để coi những «khám phá mới» để nếu cần, sửa lại… Bản dịch bạn hiện có trước mắt (đã được một nhật báo Bồ-đào-nha «đọc và nói tới» với thiện cảm) sao lại nguyên văn bản dịch 1992 của tôi. Các bạn cần tra cứu thêm có thể đọc các sách của Fernando Pessoa do nhà Christian Bourgois hoặc nhà La Différence ở Pháp ấn hành. Gần đây lại có một pho Fernando Pessoa thật đồ sộ in trong tủ sách «La Pléiade» của nhà Gallimard, Pháp. Nguyên tác (loại bỏ túi) khá phổ biến ở Bồ-đào-nha.

NGƯỜI MỤC TỬ SI TÌNH

Vào thời anh chưa có em
anh đã yêu Thiên nhiên như một thày tu lặng lẽ yêu Đức Chúa Giê-su…
Bây giờ anh yêu Thiên nhiên
như một thày tu lặng lẽ yêu Đức nữ đồng trinh Maria,
yêu sùng kính, theo cách thức của anh, như trước,
nhưng bằng một lối khác cảm động hơn và gần gũi hơn…
Anh thấy rõ hơn những dòng sông khi anh đi với em
qua những cánh đồng tới tận bờ những dòng sông;
ngồi bên em quan sát những đám mây,
anh quan sát chúng rõ hơn—
Em đã không lấy mất của anh Thiên nhiên…
Em đã thay đổi Thiên nhiên…
Em đã đem Thiên nhiên lại với anh thật sát,
nhờ em có đó anh thấy nó rõ hơn, nhưng y hệt,
nhờ tình em yêu, anh vẫn yêu Thiên nhiên cùng một cách ấy, nhưng yêu nhiều hơn nữa,
nhờ em đã chọn anh để có em và để yêu em,
mắt anh đã cố định được Thiên nhiên trong khi lần lữa lâu hơn
trên mọi vật.
Anh không ân hận về những gì anh đã là khi trước
bởi anh vẫn là như thế.

*

Trên trời cao là vành trăng xuân.
Anh nghĩ tới em, và anh cảm thấy mình đầy đủ.

Từ những cánh đồng mơ hồ lướt tới tận bên anh một cơn gió nhẹ hiu hiu.
Anh nghĩ tới em, anh thì thầm tên em; và anh không phải là anh: anh hạnh phúc.

Ngày mai em sẽ tới, em sẽ đi với anh hái những bông hoa ở miền quê,
và anh, anh sẽ đi với em ngoài đồng nhìn em hái những bông hoa.
Anh đã thấy em ngày mai đang hái những bông hoa ở ngoài đồng với anh,
bởi, ngày mai, khi em tới và đi với anh hái những bông hoa ở miền quê,
thì đó sẽ là một niềm vui và một sự thật đối với anh.

*

Tình yêu là bầu bạn.
Tôi không còn có thể đi một mình trên đường, l
à vì tôi không còn có thể đi đâu một mình.
Một ý nghĩ hiển hiện khiến tôi đi mau hơn
và thấy ít hơn, nhưng lại muốn đi và thấy hết.
Ngay cả sự vắng mặt của nàng cũng là một sự vật ở bên tôi.
Và tôi yêu nàng đến nỗi không biết làm sao ao ước nàng.

Không thấy nàng, tôi tưởng tượng ra nàng và tôi mạnh như những tàng cây cao nhất.
Nhưng thấy nàng tôi run rẩy, và tôi không biết lúc nàng vắng mặt thì mình sẽ cảm thấy ra sao.
Tôi chỉ là một sức mạnh đang rời bỏ tôi.
Tất cả thực tại nhìn tôi như một bông hướng dương có khuôn mặt nàng ở giữa.

*

Người mục tử si tình đánh mất cây hèo,
và đàn chiên tản lạc trên sườn đồi,
và chàng, mải nghĩ suy, không buồn thổi ống tiêu đã mang theo để thổi.
Trước mắt chàng không ai xuất hiện hay biến mất. Không bao giờ chàng tìm lại được cây hèo.
Những người khác nguyền rủa chàng trong lúc tụ tập đàn chiên.
Xét cho cùng, thủa nay đã có ai thương chàng.

Khi chàng từ sườn đồi đứng dậy và ra khỏi cơn thác loạn, chàng thấy hết:
những thung lũng rộng lớn vẫn đầy những cỏ xanh như bao giờ,
những ngọn núi ở xa xa, thật hơn mọi thứ tình cảm,
toàn thể thực tại, với bầu trời và không khí và những cánh đồng tồn tại và có mặt
(và khí trời mà chàng thiếu đã từ lâu lại lùa vào hai buồng phổi chàng thật tươi mát)
và chàng cảm thấy một lần nữa khí trời lại đưa chàng tới một thứ tự do trong lòng mình, nhưng một cách đớn đau.

*

Tôi đã qua một đêm không ngủ, nhìn hình dáng nàng ở ngoài không gian,
và nhìn hình dáng ấy dưới những ánh sáng khác với những ánh sáng con người thật của nàng từng xuất hiện với tôi.
Tôi sắp đặt những ý nghĩ với kỷ niệm về nàng khi nàng nói với tôi,
và trong mỗi ý nghĩ ấy nàng đổi thay hợp với hình dạng mình.
Yêu, chính là nghĩ tới.
Và tôi kẻ đã hầu như quên cảm thấy khi nghĩ tới nàng…
Tôi không biết rõ những gì tôi ao ước, ngay cả với nàng, và tôi chỉ nghĩ tới nàng.
Tôi cảm thấy một sự lãng trí lớn lao bị kích thích quá độ.
Khi tôi ao ước gặp nàng
thì hầu như tôi lại chỉ muốn đừng gặp nàng,
để khỏi phải rời xa nàng sau đó.
Tôi không rõ lắm điều tôi muốn, vả lại tôi cũng không muốn biết điều tôi muốn. Tôi chỉ muốn
nghĩ tới nàng.
Tôi không đòi hỏi điều gì ở ai hết, ngay cả với nàng, nếu không phải là nghĩ tới.

*

Hết mọi ngày lúc này tôi thức dậy với niềm vui và nỗi muộn phiền.
Ngày xưa tôi thức dậy không một cảm giác: tôi thức dậy thế thôi.
Tôi cảm thấy vui buồn vì tôi đánh mất những gì tôi mơ
và tôi có thể sống trong thực tại có những gì tôi mơ.

Tôi không biết làm gì với những cảm giác của tôi.
Tôi không biết làm gì với tôi có mình tôi bầu bạn.
Tôi muốn nàng nói với tôi một điều gì đó để đánh thức tôi dậy lần nữa.

NHỮNG BÀI THƠ RỜI

Mở cửa sổ chưa đủ
để thấy những cánh đồng và dòng sông.
Không đui mù chưa đủ
để thấy cây và thấy hoa.
Còn phải khước từ mọi triết lý.
Với triết lý thời không có cây: chỉ có những ý niệm.
Chỉ có mỗi người trong chúng ta, tựa một cái hang.
Chỉ có một khung cửa sổ khép kín, và toàn thể vũ trụ ở bên ngoài;
và chỉ có giấc mơ về những gì có thể thấy khi cửa mở,
những gì không bao giờ là những điều ta thấy khi cửa mở.

*

Anh nói tới văn minh, anh bảo nó không được thế,
hoặc nó phải thế khác.
Anh bảo mọi người đều đau khổ, hay đa số,
với những chuyện con người sắp đặt kiểu đó.
Anh bảo nếu chúng khác đi, họ sẽ bớt khổ.
Anh bảo nếu chúng được như anh mong ước, chuyện sẽ khá hơn.
Tôi lắng tai và tôi không nghe anh.
Tại sao tôi lại phải nghe anh nhỉ?
Nếu có nghe anh tôi cũng chẳng tiến bộ hơn.
Nếu mọi sự có khác đi thời chúng sẽ khác, thế thôi.
Nếu mọi sự có được như lòng anh thời chúng sẽ được như lòng anh.
Khốn cho anh và tất cả những ai phí phạm cuộc sống
vào chuyện mong muốn tìm ra cái máy làm hạnh phúc!

*

Giữa những gì tôi thấy về một cánh đồng và những gì tôi thấy về một cánh đồng khác
lướt qua trong khoảnh khắc một bóng người.
Những bước chân của anh ta đi với “anh ta” trong cùng một thực tại,
nhưng tôi nhận thấy hai thứ, những bước chân và anh ta, và ấy là hai sự vật phân biệt:
“con người” nọ đi với những ý nghĩ của mình, anh ta thật giả trá và xa lạ,
và những bước chân đi với cái hệ thống xưa, cái hệ thống làm chuyển động những bắp chân.
Từ xa xa tôi nhìn kẻ kia không một ý kiến.
Hoàn hảo biết bao nơi anh ta cái thực sự là anh ta—thân xác,
cái thực tại thật sự của anh ta, cái thực tại không có những ao ước cũng chẳng có những trông đợi,
mà chỉ có những cơ bắp với cách thức sử dụng chúng thật chắc chắn và không riêng gì của anh ta.

*

Hỡi em bé lem luốc và xa lạ đang chơi trước cửa nhà ta,
ta không hỏi em rằng em có mang tới cho ta một sứ điệp với những ký hiệu tượng trưng nào hay không.
Ta thấy chuyện ngồ ngộ là chưa từng thấy em lúc trước,
và dĩ nhiên là nếu em có thể sạch sẽ hẳn em đã là một đứa trẻ khác,
và đã chẳng tới đây.
Em hãy chơi trong bụi đất, em cứ chơi!
Ta chỉ «thưởng thức» sự có mặt của em bằng đôi mắt.
Luôn luôn nhìn sự vật lần đầu vẫn hơn là quen biết nó,
Bởi quen biết thời cũng như chưa bao giờ nhìn thấy lằn đầu,
Và chưa bao giờ nhìn thấy lần đầu chính là chỉ biết bằng nghe nói.

Cái cách dơ dáy của đứa trẻ này thật khác với cái cách dơ dáy của những đứa khác.
Em cứ chơi! Khi nắm lấy cục đá, cục đá cầm giữ em trong tay,
em biết là nó cầm giữ em trong tay.
Có triết lý nào đạt tới một sự chắc chắn lớn hơn thế?
Không, và không một triết lý nào lại có thể tới chơi trước cửa nhà tôi bao giờ.

*

Sự thật, sự dối trá, sự chắc chắn, không chắc chắn…
Người mù dưới đường kia cũng biết những lời ấy.
Tôi ngồi trên một bậc thềm cao và tôi siết đôi tay
trên mỏm cao của hai đầu gối giao nhau.
Vậy thời, sự thật, sự dối trá, sự chắc chắn, không chắc chắn, nghĩa là gì hết thảy?
Người mù dừng lại trên đường,
tôi buông tay trên đầu gối.
Sự thật, sự dối trá, sự chắc chắn, không chắc chắn, hết thảy đều là một ư?
Có điều gì đó đã đổi thay trong một phần thực tại—đôi bàn tay và hai đầu gối tôi.
Khoa học nào giải thích hiện tượng ấy?
Người mù tiếp tục đi và tôi thôi làm điệu bộ,
lúc này đã không còn phải là cùng một giờ, cũng không phải là cùng những con người ấy, cũng chẳng còn gì như vậy nữa.
Có thật, là thế đấy.

*

Một tiếng cười thiếu nữ vang lên trong khoảng không trên đường.
Nàng đã cười những lời ai nói đó mà tôi không thấy.
Tôi nhớ đã từng nghe.
Nhưng nếu bây giờ có ai nói với tôi về một tiếng cười của người thiếu nữ trên đường,
tôi sẽ nói: không, núi non, những miền đất dưới ánh nắng, măt trời, căn nhà đây
và tôi người chỉ nghe thấy tiếng máu đập lặng lẽ trong đời từ hai bên thái dương.

*

Đêm lễ thánh Giăng ở bên kia bức tường của khu vườn nhà tôi.
Ở bên này là tôi không đêm lễ thánh Giăng—
vì chỉ có thánh Giăng nơi người ta mừng lễ.
Đối với tôi thời có bóng một ngọn lửa củi trong đêm,
những tiếng cười vang vang, tiếng va chạm âm âm của những bước chân nhẩy lên rồi rớt xuống.
Và tiếng kêu bất ngờ của một người nào đó không biết là có tôi.

*

Kẻ rao giảng các chân lý của anh ta
hôm qua lại tới nói với tôi.
Anh ta đã nói với tôi về sự đau khổ của giai cấp cần lao
(Không phải về những người đang đau khổ, nếu tính kỹ hết thảy những người đau khổ thật).
Anh ta nói về sự bất công khiến kẻ này có tiền bạc,
và kẻ kia thời đói—đói ăn
hay đói món tráng miệng của kẻ khác, tôi không rõ lắm.
Anh ta nói về tất cả những gì có thể khiến anh ta nổi giận.

Ôi kẻ có thể nghĩ tới nỗi khốn khổ của người khác hẳn là phải hạnh phúc lắm!
Và cũng ngu xuẩn biết bao, nếu anh ta không hay là sự khốn khổ của kẻ khác chỉ thuộc về họ,
và không thể chữa chạy từ bên ngoài,
bởi đau khổ không phải là thiếu mực
hoặc không có những xấp bạc cho két sắt!

Chuyện bất công có thật cũng tựa như cái chết có thật.
Phần tôi, có lẽ tôi sẽ không nhúc nhích một bước để sửa lại
điều mà người ta gọi là sự bất công trên thế giới.
Có lẽ tôi có bước cả ngàn bước nhằm mục đích ấy,
cũng chỉ là thêm một ngàn bước nữa mà thôi.
Tôi chấp nhận bất công như chấp nhận rằng một tảng đá không tròn,
hay một cây sồi vỏ bấc không sinh ra làm cây thông hoặc giống sồi có trái.

Tôi bổ trái cam làm đôi, và hai phần không thể bằng nhau;
tôi bất công với nửa nào—tôi, kẻ sẽ ăn cả hai?

*

Anh, kẻ chủ trương thần bí, anh nhìn thây ý nghĩa nơi hết mọi vật
Đối với anh, tất cả đều có một ý nghĩa tàng ẩn.
Nơi mỗi vật anh nhìn đều có một sự huyền bí.
Những gì anh nhìn, anh vẫn nhìn để thấy một vật khác.
Phần tôi, nhờ có một đôi mắt chỉ để nhìn,
tôi nhìn thấy sự vắng mặt của ý nghĩa nơi mọi vật;
tôi thấy điều ấy và tôi yêu mình, bởi là một sự vật chính là không hàm nghĩa gì hết.
Là một sự vật, là không thể giải thích.

*

Hỡi người mục tử trên núi cao, thật xa cách tôi với đàn chiên của anh—
cái hạnh phúc dường như anh có đó là gì—là hạnh phúc của anh hay của tôi?
Sự bình yên mà tôi cảm thấy khi nhìn thấy anh, sự bình yên ấy thuộc về tôi, thuộc về anh?
Không, nó không thuộc về anh cũng chẳng thuộc về tôi, hỡi người mục tử.
Nó chỉ thuộc về hạnh phúc và sự bình yên.
Vả lại anh không có nó, vì anh không biết là mình có nó.
Còn tôi, tôi cũng không có nó, vì tôi biết là tôi có nó.
Nó chỉ có đó, và tình cờ gặp gỡ chúng ta như mặt trời,
kẻ đang vỗ vào lưng anh, sưởi ấm anh và anh, rửng rưng anh nghĩ tới chuyện khác,
và kẻ đang chiếu vào mặt tôi, làm chói lòa mắt tôi và tôi, tôi chỉ nghĩ tới mặt trời.

*

Phải: tôi hiện hữu ở bên trong thân xác tôi
Tôi không mang mặt trời hay mặt trăng trong túi
Tôi không muốn chinh phục những thế giới vì đã mất ngủ
Thế giới không phải bữa ăn chính của tôi vì cái dạ dầy.
Rửng rưng ư?
Không: là con của trái đất, kẻ, nếu có nhảy thì quả là sai lạc
Phút giây trong không khí không được tạo ra cho chuyện đó
Và chỉ hài lòng khi đôi chân lại chạm đất
Hấp! chạm tới thực tế không hề thiếu.

*

Tôi không vội: mặt trăng và mặt trời không vội.
Không ai có thể đi nhanh hơn đôi chân mình.
Nếu như nơi tôi muốn tới ở xa, tôi không có đó ngay tức khắc.

*

Tôi không vội. Vội làm gì?
Mặt trăng và mặt trời không vội: chúng chính xác.
Vội chính là tin rằng ta có thể đi trước đôi chân mình
Hoặc khi phóng tới, ta nhảy qua được chiếc bóng mình.
Không; tôi không vội.
Nếu tôi vươn cánh tay, tôi sẽ tới đúng nơi cánh tay tôi vươn tới
Không hơn một phân.
Tôi với tới nơi tôi với tới, chứ không phải nơi tôi nghĩ.
Tôi chỉ có thể ngồi ở nơi tôi có mặt.
Và điều đó khiến ta bật cười như mọi chân lý hoàn toàn xác thật
Nhưng chuyện đáng cười chính là chúng ta, chúng ta luôn luôn nghĩ tới chuyện khác
Và rong chơi tầm bậy xa một thân xác.

*

Này: anh là một cái gì còn hơn
là một tảng đá hay một cái cây.
Này: anh cảm, anh nghĩ và anh biết
là anh nghĩ và anh cảm thấy.
Vậy chứ đá có biết viết những vần thơ?
Vậy chứ cỏ cây có chăng những ý nghĩ về thế giới?

Phải: có điều khác biệt.
Nhưng đó không phải là điều khác biệt mà anh thấy;
bởi sự việc có ý thức không buộc tôi phải có những lý thuyết về sự vật;
nó chỉ buộc tôi có ý thức.

Tôi có hơn gì một tảng đá hay một cái cây? Tôi không biết.
Tôi khác chúng. Ý nghĩa của mấy chữ này tôi không được rõ lắm.

Có ý thức phải chăng là hơn có một màu sắc?
Có thể đúng, có thể không.
Tôi chỉ biết điều ấy hoàn toàn khác.
Không ai có thể chứng minh rằng điều ấy còn có gì hơn là chỉ hoàn toàn khác.
Tôi biết rằng tảng đá có thật, và cái cây hiện hữu.
Điều đó, tôi biết là vì chúng hiện hữu.
Điều đó, tôi biết là vì giác quan tôi chỉ cho tôi.
Tôi biết rằng tôi, tôi cũng có thật.
Điều đó, tôi biết là vì giác quan tôi chỉ cho tôi,
dù không rõ bằng chúng chỉ cho tôi tảng đá và cái cây.
Tôi không biết nhiều hơn nữa.
Phải, tôi viết những câu thơ, và tảng đá không viết những câu thơ.
Phải, tôi có những ý nghĩ về thế giới, và cái cây không hề có.
Nhưng đó là vì đá không phải là thi sĩ, chúng là đá;
và cây chỉ là cây, chứ không phải những nhà suy tưởng.
Tôi có thể nói rằng về chuyện đó tôi hơn hẳn chúng
cũng như nói rằng tôi thua kém chúng.
Nhưng tôi không nói như vậy: về tảng đá, tôi nói: « ấy là một tảng đá »,
về cái cây, tôi nói: « ấy là một cái cây »,
về tôi, tôi nói: « tôi là tôi »,
và tôi không nói gì hơn nữa. Có gì khác hơn để nói?

*

Thực tại hãi hùng của sự vật
là khám phá của tôi hết mọi ngày.
Mỗi sự vật không là gì khác hơn chính nó,
và thật khó mà giải thích điều đó đã làm tôi vui sướng biết bao
và đã đủ cho tôi đến thế nào.

Muốn đầy đủ chỉ cần hiện hữu.

Tôi đã viết khá nhiều bài thơ.
Dĩ nhiên là tôi sẽ còn viết thêm nhiều bài nữa.
Điều đó, mỗi bài thơ tôi đều có nói,
và hết thảy những bài thơ tôi đều khác nhau,
là vì mỗi sự vật trên thế giới là một cách nói lên điều đó.

Đôi khi tôi khởi sự nhìn một tảng đá.
Tôi không bắt đầu ngẫm nghĩ xem đá có cảm giác hay không.
Tôi không lú lẫn đến kêu nó bằng người em gái của tôi
nhưng tôi yêu nó bởi vì nó là một tảng đá,
tôi yêu nó bởi vì nó không cảm thấy gì hết,
tôi yêu nó bởi vì nó không có chút họ hàng với tôi.

Có những lần khác tôi nghe gió đi qua,
và tôi thấy, nếu chỉ để nghe gió đi qua, thật cũng đáng sinh ra.

Tôi không biết những người khác sẽ nghĩ gì khi đọc điều này;
nhưng tôi thấy điều ấy hẳn là tốt bởi lẽ tôi suy ra nó chẳng khó nhọc gì,
cũng chẳng quan niệm rằng sẽ có những người lạ để nghe tôi suy tưởng:
là vì tôi suy tưởng điều ấy ở ngoài mọi suy tưởng,
là vì tôi nói ra điều ấy như những lời tôi nói nói ra.

Có một lần người ta đã kêu tôi bằng nhà thơ duy vật,
và tôi lấy làm lạ lùng, vì tôi không tưởng tượng được
rằng người ta có thể cho tôi một danh hiệu nào đó.
Tôi cũng không phải là thi sĩ nữa: tôi nhìn thấy.
Nếu những gì tôi viết ra có một giá trị nào, thì đó không phải là tôi có:
cái giá trị nằm ở đó, trong những vần thơ tôi.
Hết thảy chuyện ấy là hoàn toàn độc lập với ý muốn tôi.

*

Khi mùa xuân trở lại
có lẽ nó sẽ không còn thấy tôi trên cõi đời này nữa.
Bây giờ tôi mong muốn mình có thể tin được rằng mùa xuân là một người
để có thể cho rằng mùa xuân sẽ khóc
khi thấy mình đã mất mất người bạn duy nhất.
Nhưng mùa xuân cũng không phải là một sự vật nữa: ấy chỉ là một cách nói.
Những bông hoa cũng không trở lại, những chiếc lá xanh cũng thế.
Có những bông hoa mới, những chiếc lá xanh mới.
Có những ngày ngọt ngào khác.
Không có gì trở lại, không có gì lặp lại chính mình, bởi tất cả đều có thật.

*

Nếu tôi chết trẻ,
không xuất bản được lấy một cuốn sách,
không được thấy dáng vẻ những vần thơ tôi mực đen trên giấy trắng,
thì tôi xin, nếu có ai muốn buồn khổ vì tôi,
xin hãy đừng buồn khổ.
Nếu chuyện xẩy ra như thế, thì cũng là chính đáng.

Dù cho những vần thơ tôi không bao giờ được xuất bản,
chúng vẫn có vẻ đẹp của chúng, nếu quả chúng đẹp thật.
Nhưng thực ra chúng không thể vừa đẹp vừa không bao giờ được in ra,
là vì những rễ cây rất có thể nằm trong lòng đất,
nhưng bông hoa thì nở ngoài trời và trước mắt mọi người.
Chuyện bắt buộc phải thế; không ai ngăn cản được điều đó.

Nếu tôi chết rất trẻ, xin hãy nghe điều này:
tôi bao giờ cũng chỉ là một đứa trẻ nô đùa.
Tôi sùng bái như nắng trời và nước
một tôn giáo mà duy con người không biết tới.
Tôi hạnh phúc vì tôi không đòi hỏi gì hết,
cũng chẳng hề tìm kiếm;
hơn nữa tôi không thấy có một giải thích nào
khác hơn là chữ giải thích chẳng hề có nghĩa.

Tôi chỉ ao ước ở lại với nắng và mưa—
với nắng khi trời nắng
và với mưa khi trời mưa
(nhưng không bao giờ ngược lại),
cảm thấy khí trời ấm áp và lạnh lẽo và gió
và không đi xa hơn nữa.

Có một lần tôi đã yêu và ngỡ rằng người ta sẽ yêu tôi;
nhưng tôi không được yêu.
Tôi không đuưọc yêu chỉ vì một lý do chính
là chuyện không nên thế.

Tôi tự an ủi mình bằng cách trở lại với nắng và mưa
và lại ngồi trước cửa nhà tôi.
Xét cho cùng, với những người được yêu, những cánh đồng không xanh bằng
với những người không được yêu.
Cảm, là đãng trí.

*

Khi mùa xuân tới
nếu tôi đã chết,
những bông hoa vẫn sẽ nở như thế
và cỏ cây cũng vẫn xanh không kém mùa xuân trước.
Thực tại không cần tôi.

Tôi cảm thấy một niềm vui to lớn
khi nghĩ rằng cái chết của tôi chẳng có gì quan trọng.

Nếu tôi biết ngày mai tôi phải chết
và mùa xuân sẽ tới vào hôm sau,
tôi sẽ hài lòng vì xuân tới vào hôm sau.
Nếu đó là thời gian của nó, xuân sẽ tới lúc nào nếu không phải là vào thời gian của nó?
Tôi mong muốn mọi sự đều có thật và mọi sự đều chính xác;
và tôi mong muốn thế vì mọi sự hẳn sẽ như thế, dù cho tôi có không mong muốn thế.
Cũng bởi thế mà nếu tôi phải chết ngay tức khắc, tôi sẽ chết hài lòng,
bởi tất cả đều có thật và tất cả đều chính xác.

Nếu muốn, người ta có thể cầu kinh bằng tiếng la-tinh trên quan tài tôi.
Nếu muốn, người ta có thể nhảy múa và ca hát khắp chung quanh.
Tôi không có những điều ưa thích hơn vào một thời mà tôi không còn có thể có những điều ưa thích.
Chuyện sẽ tới khi chuyện đó tới, chính chuyện đó sẽ là thực tại.

*

Nếu khi tôi chết, người ta muốn viết tiểu sử tôi
thời không có gì giản dị hơn.
Tiểu sử ấy chỉ có hai dòng ngày tháng—ngày tôi sinh và ngày tôi chết
giũa hai ngày tháng ấy hết mọi ngày đều là của tôi.

Tôi là người dễ xác định.
Tôi đã sống như điên khùng.
Tôi đã yêu sự vật không chút đa tình đa cảm.
Không bao giờ tôi có một khát vọng mà tôi không thể thực hiện, là vì tôi không bao giờ tự bịt mắt.
Ở nơi tôi chính sự việc hiểu biết bao giờ cũng chỉ là kết quả của sự việc nhìn thấy.
Tôi hiểu rằng sự vật là có thật và hết thảy đều khác nhau;
tôi hiểu điều đó bằng mắt, chứ không bao giờ bằng suy tưởng.
Hiểu điều đó bằng suy tưởng là sẽ thấy chúng hết thảy đều giống nhau.

Một ngày nọ đã cho tôi giấc ngủ như đã cho bất cứ đứa trẻ nào.
Tôi đã nhắm mắt lại và tôi ngủ.
Ngoài chuyện đó ra, tôi là người làm thơ duy nhất của Thiên nhiên.

*

Đêm tối. Đêm tối lắm. Ở một ngôi nhà thật xa
lấp lánh ánh sáng một khung cửa sổ.
Tôi nhìn thấy ánh sáng ấy và cảm thấy mình hoàn toàn là người.
Thực là lạ lùng khi tất cả cuộc sống của con người cư ngụ ở đó, con người tôi không rõ tung tích,
chỉ thu hút tôi bằng cái ánh sáng nhìn thấy từ xa ấy.
Chắc chắn là cuộc sống của kẻ kia có thật, anh ta có một khuôn mặt, những điệu bộ, một gia đình và một nghề nghiệp.

Nhưng lúc này đối với tôi duy có cái ánh sáng ở khung cửa sổ nhà anh ta là quan trọng.
Mặc dù ánh sáng ấy có đó là vì anh ta đã thắp lên,
làn sáng ấy đối với tôi là một thực tại tức thời.
Tôi không bao giờ đi quá cái thực tại tức thời.
Ở bên kia cái thực tại tức thời không có gì hết.
Nếu như tôi, từ nơi tôi đang ở, tôi chỉ thấy làn ánh sáng ấy,
thì trong khoảng cách giữa tôi với nó, chỉ có làn ánh sáng ấy.
Người nọ và gia đình anh ta có thật ở bên kia khung cửa.
Và tôi ở bên này khung cửa, thật cách xa.
Ánh sáng kia đã tắt.
Quan hệ gì với tôi nếu người kia vẫn tiếp tục tồn tại?

*

Tôi không sao hiểu được bằng cách nào người ta lại có thể thấy hoàng hôn là buồn.
Trừ phi đó là vì hoàng hôn không phải là rạng đông.
Nhưng nếu nó đã là hoàng hôn thì làm sao còn có thể là rạng đông?

*

Một ngày mưa cũng đẹp như một ngày nắng,
cả hai đều hiện hữu, mỗi thứ một cách.

*

Khi nào cỏ mọc trên nấm mộ tôi,
ước chi đó là dấu hiệu để người ta quên tôi đi hoàn toàn.
Thiên nhiên không bao giờ tưởng nhớ, và bởi thế mà nó đẹp.
Và nếu người ta cảm thấy cái nhu cầu bệnh hoạn cần «giải thích» cỏ xanh trên nấm mộ tôi,
xin hãy nói rằng tôi tiếp tục xanh tươi và tự nhiên.

*

Nếu con người thật đúng là người
không phải thứ động vật đau yếu, mà là động vật hoàn hảo nhất,
động vật trực tiếp chứ không phải gián tiếp,
thời cách thức nhận ra ý nghĩa nơi mọi vật của con người ấy hẳn phải khác,
khác và đích thực.
Con người ấy hẳn phải có được một cách nhận thức về cái «toàn thể»,
một cách nhận thức, tựa như nhìn thấy và nghe, về cái «toàn bộ» của mọi vật
chứ không phải, như chúng ta vẫn có, một tư tưởng về cái «toàn thể»;
chứ không phải, như chúng ta vẫn có, một ý niệm về cái «toàn bộ» của mọi vật.
Và như thế—có lẽ chúng ta sẽ thấy—có lẽ chúng ta sẽ không có một khái niệm về cái «toàn thể» hay «toàn bộ»,
là vì nhận thức về cái «toàn bộ» hay «toàn thể» không đến từ một toàn bộ hay một toàn thể,
mà từ Thiên nhiên đích thực, có lẽ không ở nơi toàn bộ cũng chẳng ở trong từng phần.

*

Sự huyền bí độc nhất của Vũ trụ là cái quá chứ không phải cái kém.
Chúng ta nhận thức mọi vật quá đáng—bởi đó mà có sai lầm, nghi hoặc.
Đối với tôi những gì hiện hữu vượt quá những gì tôi tin là hiện hữu.
Thực tại chỉ là có thật chứ không phải được suy tưởng.

*

Không phải Vũ trụ là một ý nghĩ của tôi.
Chính ý nghĩ của tôi về Vũ trụ mới là một ý nghĩ của tôi.
Không phải màn đêm buông xuống vì đôi mắt tôi,
mà chính ý nghĩ của tôi về đêm tối buông xuống trước mắt tôi.
Ở ngoài chuyện tôi suy tưởng hoặc có những suy tư
đêm buông xuống thật cụ thể
và ánh sao sáng ngời hiện hữu như có sức nặng thật.

*

Chẳng khác nào ngôn từ thất bại khi muốn diễn tả một tư tưởng nào đó,
tư tưởng cũng thất bại khi muốn diễn tả một thực tại nào đó.
Song, bởi thực tại–suy tưởng không phải là được phát biểu mà là được suy tưởng,
thế nên thực tại phát biểu kia hiện hữu, chứ không phải chuyện nó được suy tưởng.
Cũng như thế, tất cả những gì hiện hữu chỉ là hiện hữu.
Phần còn lại là một thứ hôn mê của chúng ta,
một thứ già cỗi bám theo chúng ta từ khởi đầu căn bệnh.

*

Tấm gương phản chiếu đúng; nó không lầm lạc vì không suy tưởng.
Suy tưởng thiết yếu là lầm lạc.
Lầm lạc thiết yếu là đui mù và điếc.

*

Những sự thật này không hoàn hảo vì chúng được phát biểu,
và trước khi được phát biểu, đã được nghĩ suy,
nhưng thật ra có điều chắc chắn là chúng tự phủ nhận chính chúng
bằng phủ định ngược lại này chúng khẳng định một điều gì đó.
Khẳng định duy nhất là hiện hữu.
Và tự tôi, tôi không muốn là gì ngược lại.

*

Đứa trẻ nghĩ tới những nàng tiên và tin ở tiên
xử sự như một vị thần đau yếu nhưng như một vị thần.
Bởi mặc dù nó quả quyết là hiện hữu nhựng gì không hiện hữu
nó biết mọi sự hiện hữu, nghĩa là đang có, là thế nào,
nó biết hiện hữu hiện hữu và không cần giải thích,
nó biết không có lý do nào khiến mọi sự không hiện hữu,
nó biết hiện hữu là hiện hữu ở một điểm
có điều nó không biết là tư tưởng chẳng phải bất cứ một điểm nào.

*

Từ xa xa tôi nhìn thấy một con tàu trôi trên dòng sông…
Con tàu hững hờ xuôi dòng Tage.
Nhưng không phải hững hờ vì nó chẳng quan tâm gì tới tôi
Và nói như thế tôi cũng chẳng hề biểu lộ một nỗi ưu phiền nào.
Mà là hững hờ vì nó chẳng có nghĩa gì
Ngoài sự kiện ra đi con tàu biệt xứ
Xuôi dòng sông không một chiếc khăn tay nào của siêu hình,
Xuôi dòng sông tới mãi hiện thực của biển.

*

Tôi tin rằng mình gần chết.
Nhưng ý nghĩa của chết không làm tôi xúc động,
Tôi suy ra răằg chết hẳn không có nghĩa.
Những chữ sống và chết là những thứ phân loại như phân loại các giống cây.
Những chiếc lá nào hoặc những bông hoa nào được phân loại?
Cuộc sống nào chứa đựng cuộc sống hoặc cái chết nào chứa đựng cái chết?
Tất cả những chuyện đó chỉ là những từ người ta dùng để định nghĩa.
Và một định nghĩa tốt là: tôi vẫn tiếp tục.

*

Đêm xuống, hơi nóng dịu bớt đôi chút,
tôi tỉnh táo như chưa từng suy tưởng
và tôi như mọc rễ, liên hệ trực tiếp với trái đất
không phải thứ liên hệ cảm giác thứ yếu nhận thấy lúc đêm xuống.
Ban đêm khi tôi xa rời mọi vật,
và gần gũi các vì sao hoặc những chòm tinh tú ở xa—
tôi lầm lạc: là vì cái ở xa không phải là cái kề cận,
và gần gũi nó chính là lầm lẫn.

*

Tôi đau yếu. Suy tưởng của tôi bắt đầu lẫn lộn.
Nhưng thân xác tôi, vươn dài tới sự vật, thâm nhập chúng.
Tôi cảm thấy mình là thành phần tất yếu của mọi sự
Và ở nơi tôi bắt đầu thực hiện một công cuộc giải phóng lớn lao,
Một niềm vui trọng thể lớn lao như khi tôi mạnh khỏe.

*

Khi trời lạnh vào thời lạnh, tôi cảm thấy như trời thật dễ chịu
là vì đối với con người tôi, con người hòa nhịp với sự hiện hữu của mọi vật,
cái tự nhiên là cái dễ chịu chỉ vì nó tự nhiên.

Tôi chấp nhận mọi khó khăn của cuộc sống vì chúng là định mệnh,
cũng như tôi chấp nhận cái lạnh quá đáng vào giữa mùa đông—
một cách bình thản, không ta thán, như một người chấp nhận vô điều kiện, chấp nhận một cách đơn thuần
và tìm thấy niềm vui của mình trong sự việc chấp nhận—
trong sự việc khoa học một cách tuyệt vời và khó khăn là chấp nhận cái tự nhiên không thể tránh.

Những bệnh tật tôi mang trong người và điều ác hại xẩy đến với tôi,
có là gì khác hơn là mùa đông của bản thân tôi và cuộc đời tôi?
Cái mùa đông bất thường mà quy luật điều hòa tôi không được biết tới
nhưng hiện hữu đối với tôi chiếu theo cùng một định mệnh cao cả,
cùng một thứ ngoại tính khách quan không thể tránh sánh với bản thân tôi,
như hơi nóng của trái đất vào lúc mùa hè gay gắt nhất
và cái lạnh của trái đất vào giữa mùa đông.

Tôi chấp nhận vì tư cách.
Tôi sinh ra, như mọi người, có thể nhầm lẫn và mắc các khuyết điểm,
nhưng không bao giờ nhầm lẫn vì muốn hiểu quá đáng,
không bao giờ nhầm lẫn vì muốn hiểu chỉ bằng trí tuệ,
không bao giờ mắc phải cái lỗi buộc Thế giới
phải là điều gì khác hơn là Thế giới.

*

Dẫu sự vật ở trung tâm Thế giới là gì đi nữa,
nó đã cho tôi thế giới bên ngoài như một thí dụ về Thực tại,
và khi tôi nói: «điều ấy có thật», dù là về một tình cảm,
tôi nhìn thấy nó bất chấp bản thân tôi trong một không gian nào đó ở bên ngoài,
tôi nhìn thấy nó với một quang cảnh nào đó ở bên ngoài tôi và xa lạ với tôi.

Có thật có nghĩa là không ở trong tôi.
Tôi không hề có một ý niệm nào về thực tại của bản thân thầm kín của tôi.
Tôi biết là thế giới hiện hữu, nhưng tôi không biết là tôi có hiện hữu hay không.
Tôi chắc chắn về sự hiện hữu của ngôi nhà trắng của tôi
hơn là sự hiện hữu bên trong của ông chủ ngôi nhà trắng ấy.
Tôi tin ở xác thân tôi hơn là ở hồn tôi,
là vì xác thân tôi nằm giữa thực tại,
có thể được người khác nhìn thấy
có thể động chạm tới người khác,
có thể ngồi và có thể đứng,
nhưng hồn tôi, phải, hồn tôi chỉ có thể được xác định bằng những từ thuộc ngoại cảnh.
Đối với tôi, hồn tôi hiện hữu—vào những lúc tôi thấy hồn thực sự hiện hữu—
bằng vay mượn ở thực tại bên ngoài của Thế giới.

Nếu hồn thật hơn
là thế giới bên ngoài, như anh là triết gia, anh bảo,
thì tại sao tôi lại được cho thấy thế giới bên ngoài như một kiễu mẫu về thực tại?

Nếu chuyện cảm thấy đối với tôi
chắc chắn hơn là sự hiện hữu của sự vật tôi cảm thấy—
thì tại sao tôi cảm thấy
và tại sao sự vật ấy lại xuất hiện độc lập đối với tôi
không cần tôi để tồn tại,
và tôi lúc nào cũng dính liền với bản thân tôi, lúc nào cũng riêng tư và không thể truyền đạt?
Tại sao tôi lại xê dịch cùng với những người khác
ở thế giới này, một thế giới mà đối với chúng ta là của cảm nhận và trùng hợp,
nếu như tình cờ thế giới này là sai lầm và nếu như tôi là chắc chắn?
Nếu Thế giới là một sai lầm, thì ấy là một sai lầm chung của mọi người.
Và mỗi người chúng ta là sai lầm của từng người trong chúng ta tách riêng ra.
Tính từ chuyện, Thế giới này vẫn chắc chắn hơn.

Nhưng tại sao tôi lại đi tự hỏi, nếu không phải là vì tôi đau yếu?
Vào những ngày chính xác, những ngày ở bên ngoài của đời tôi,
những ngày mà tôi có sự sáng suốt tự nhiên thật hoàn hảo,
tôi cảm thấy mà không cảm thấy là mình cảm thấy,
tôi nhìn thấy mà không biết là mình nhìn thấy,
và không bao giờ Vũ trụ lại thật hơn lúc đó,
không bao giờ Vũ trụ (chẳng gần cũng chẳng xa tôi
nhưng) ở ngoài tôi tuyệt vời đến thế.
Khi tôi bảo: «chuyện hiển nhiên», thì phải chăng tình cờ tôi muốn nói: «chỉ có mình tôi nhìn thấy nó»?
Khi tôi bảo: «thực vậy», thì phải chăng tình cờ tôi muốn nói: «ấy chỉ là ý kiến của riêng tôi»?
Khi tôi bảo: «vật nọ vật kia có đó», thì phải chăng tình cờ tôi muốn nói: «một vật như thế như thế không có đó»?
Và nếu chuyện diễn ra như vậy trong đời sống, thì tại sao nó lại khác trong triết lý?
Chúng ta sống trước khi luận bàn triết lý, chúng ta hiện hữu trước khi biết là mình hiện hữu,
và sự kiện đầu tiên trong những sự kiện trên ít ra cũng đáng với thứ bậc và sự sùng kính.
Phải, trước khi ở bên trong chúng ta đã ở bên ngoài.
Và bởi thế, chúng ta ở bên ngoài là chính yếu.

Anh, triết gia bệnh hoạn, nói gọn là triết gia, anh bảo ấy là duy vật chủ nghĩa.
Nhưng làm thế nào điều đó lại có thể là duy vật chủ nghĩa, nếu duy vật chủ nghĩa là một triết lý,
nếu đó là một triết lý đúng đắn, ít ra là của tôi, một triết lý của tôi,
trong lúc chính điều đó lại không thuộc về tôi, và chính tôi, tôi cũng không phải là tôi?

*

Đối với tôi không quan trọng mấy.
Cái gì đối với tôi không quan trọng mấy? Tôi không biết: đối với tôi không quan trọng mấy.

*

Chiến tranh với những binh đoàn của nó tàn phá Thế giới
là kiểu mẫu hoàn hảo về những tập tục tệ hại của triết lý.

Chiến tranh, như tất cả mọi sự thuộc con người, tìm cách sửa đổi.
Nhưng chiến tranh, hơn hết thảy, tìm cách sửa đổi, sửa đổi thật mạnh mẽ
và sửa đổi mau chóng.

Nhưng chiến tranh gây ra chết chóc
và cái chết là sự khinh bỉ mà Vũ trụ biểu lộ với chúng ta.
Với hậu quả là cái chết, chiêế tranh chứng tỏ mình sai lầm.
Là sai lầm, nó chứng tỏ sự sai lầm của tất cả những gì tìm cách sửa đổi.

Ta hãy để vũ trụ bên ngoài và những người khác ở yên nơi Thiên nhiên đặt để.

Tất cả là kiêu căng và vô ý thức.
Tất cả là thèm muốn khuấy động, làm nên chuyện, để lại dấu tích.
Giữa lòng những đoàn binh và ở bộ chỉ huy của chúng
vũ trụ bên ngoài lại trở lại dần dần.
Sự biến đổi trực tiếp của Thiên nhiên
không để lại một khoảng trống nào cho suy tưởng.

Nhân loại là một cuộc nổi loạn của những kẻ nô lệ.
Nhân loại là một chính quyền do quần chúng tiếm đoạt.
Nó hiện hữu bởi đã tiếm đoạt, nhưng nó lầm đường bởi tiếm đoạt là làm điều quấy.

Hãy để cho thế giới bên ngoài và nhân loại tự nhiên tồn tại!
Bình yên cho mọi sự có trước con người, nếu không phải là nơi con người,
bình yên cho yếu tính hoàn toàn ở bên ngoài của Vũ trụ!

*

Tất cả những ý kiến về thiên nhiên được người ta nhìn nhận
chưa bao giờ làm mọc lên một lá cỏ hoặc nảy sinh một đóa hoa.
Toàn bộ những hiểu biết liên quan tới mọi vật
chưa bao giờ là điều tôi có thể tán đồng cho bằng chính những sự vật.
Nếu khoa học có nghĩa là xác thực,
có khoa học nào xác thực hơn khoa học của những sự vật lạ xa với khoa học?
Tôi nhắm mắt lại và trái đất tôi nằm bên trên
có một thực tại thật đến nỗi sống lưng tôi cũng cảm thấy.
Tôi cần gì phải lý sự nếu tôi có đôi vai?

*

Hỡi con tàu đi những miền đất xa,
tại sao, trái với những người khác,
khi mi ra đi, ta chẳng hề tiếc thương?
Ấy là vì, ngay từ phút ta không còn thấy mi, mi đã thôi hiện hữu.
Và, nếu như có những kẻ tiếc thương những gì không hiện hữu,
thì trên đời không có lấy một vật gì ta cảm thấy tiếc thương như vậy:
chúng ta tiếc thương là tiếc thương chính chúng ta, chứ không phải con tàu.

*

Đồng quê lớn dần lên và nhuộm vàng.
Buổi sáng đi lạc ở những thế đất lồi lõm vùng bình nguyên.
Tôi xa lạ với cảnh tượng mà tôi thấy: tôi thấy nó,
cảnh tượng ấy ở ngoài tôi. Không một tình cảm nào nối kết tôi lại với nó—
và chính tình cảm ấy nối kết tôi với buổi sáng đang hiện ra.

*

Hỡi vì sao biến đi cuối cùng trước khi trời sáng,
ta nhìn tia nhấp nháy xanh-trắng của mi bằng cái nhìn bình thản của ta,
và ta thấy mi biệt lập với ta;
vui vì cái cảm giác mà ta có là có thể quan sát mi
ngoài mọi thứ «tâm trạng», ta mơ ta thấy mi.
Vẻ đẹp của mi trước mắt ta nằm trong việc mi hiện hữu,
và sự lớn lao của mi trong việc mi hiện hữu hoàn toàn ở ngoài ta.

*

Nước róc rách trong cái bình thoát hơi mà tôi đưa lên môi.
«Tiếng nước thật tươi mát», kẻ không uống nước nói với tôi.
Tôi mỉm cười. Âm thanh ấy chỉ là một tiếng róc rách.
Tôi uống nước mà không nghe gì hết bằng cổ họng.

*

Người đã nghe đọc thơ tôi nói với tôi: «Thơ anh đó có gì là mới lạ?»
Mọi người đều biết một bông hoa là một bông hoa và một cái cây là một cái cây.
Nhưng tôi, tôi đáp: «Mọi người ư? thật thế không?…»
Bởi vì mọi người yêu hoa là vì chúng đẹp, còn tôi thì khác.
Và mọi người yêu cây là vì chúng xanh tươi và cho bóng mát, nhưng tôi thì không.
Tôi yêu hoa vì chúng là hoa, trực tiếp.
Tôi yêu cây vì chúng là cây, không cần tới ý nghĩ của tôi.

*

A, các người muốn một ánh sáng hoàn hảo hơn
ánh sáng Mặt trời!
Các người muốn những đồng cỏ xanh hơn những đồng cỏ này!
Các người muốn những bông hoa đẹp hơn
những bông hoa mà tôi thấy!
Tôi, Mặt trời này, những đồng cỏ này, những bông hoa này
đã làm tôi hài lòng.

Nhưng nếu tình cờ chúng không làm tôi thỏa mãn,
thì điều tôi ao ước, ấy là một mặt trời mặt trời hơn
Mặt trời,
điều tôi ao ước, ấy là những đồng cỏ đồng cỏ hơn
những đồng cỏ đây,
điều tôi ao ước, ấy là những bông hoa bông hoa này hơn
cả những bông hoa này—
hoàn toàn lý tưởng hơn những gì cùng một kiểu thức như nhau!

*

Tôi thích thú những cánh đồng mà không quan sát chúng.
Anh hỏi tôi tại sao tôi thích thú.
Là vì tôi thích thú, ấy là lời tôi đáp.
Thích thú một bông hoa là thấy mình ở bên hoa thật vô thức
và có một khái niệm về mùi hương của hoa trong những ý nghĩ mơ hồ nhất của chúng ta.
Khi tôi quan sát, tôi không thích thú: tôi thấy.
Tôi nhắm mắt lại, và thân tôi, nằm trong cỏ,
hoàn toàn thuộc về cái bên ngoài của kẻ nhắm mắt—
thuộc về cái tươi mát cứng cỏi của đất thơm và không đều đặn;
và một cái gì đó trong những tiếng động không phân biệt được của những vật đang sống,
và duy một chút bóng mờ đỏ thắm của ánh sáng ấn nhẹ trên hốc mắt tôi,
và duy một chút sống còn lại nghe thấy.

*

Anh nói hãy sống trong hiện tại;
hãy chỉ sống trong hiện tại.

Nhưng tôi, tôi không muốn hiện tại, tôi muốn thực tại;
tôi muốn những sự vật hiện hữu, chứ không phải thời gian đo đếm chúng.

Hiện tại là gì?
Ấy là một điều hiện hữu tủy theo sự hiện hữu của những điều khác.
Tôi, tôi chỉ muốn mình thực tại, những sự vật không hiện tại.

Tôi không muốn bao gồm thời gian trong sơ đồ của tôi.
Tôi không muốn quan niệm sự vật kể như hiện tại: tôi muốn quan niệm chúng như sự vật.
Tôi không muốn tách biệt chúng ra khỏi chính chúng, bằng cách xử sự với chúng như những sự vật hiện tại.
Có lẽ tôi cũng chẳng nên xử sự với chúng ngay như là có thật.
Có lẽ tôi cũng chẳng nên xử sự với chúng kể như là gì hết.
Có lẽ tôi chỉ nên nhìn chúng , chỉ nhìn chúng mà thôi;
nhìn chúng tới tới mức độ không thể nghĩ tới chúng,
nhìn chúng ngoài thời gian, ngoài không gian,
nhìn chúng với cái khả năng từ bỏ hết, ngoại trừ những gì nhìn thấy được.
Đấy là khoa học nhìn ngắm—thứ khoa học không phải là một khoa học.

*

Sáng nay tôi ra khỏi nhà rất sớm
là vì tôi thức dậy còn sớm hơn
và chẳng có gì muốn làm hết…

Tôi không biết phải đi hướng nào,
nhưng gió thổi mạnh, gió thổi từ một phía,
và tôi theo con đường gió thổi tới từ sau lưng.

Cuộc đời tôi vẫn hoài như thế, và
tôi ao ước nó mãi là như thế—
tôi đi tới nơi mà gió cuốn và tôi
không cảm thấy mình suy nghĩ.

*

Dấu hiệu đầu tiên báo trước cơn giông ngày mốt.
Những đám mây trắng đầu tiên lượn thấp dưới bầu trời tẻ nhạt,
của cơn giông ngày mốt?
Tôi chắc chắn thế, nhưng sự chắc chắn là dối trá.
Có sự chắc chắn, chính là không nhìn.
Không có ngày mốt.
Những gì hiện có là như sau:
một bầu trời màu thiên thanh, hơi tẻ nhạt, vài đám mây trắng ở chân trời,
với đôi nét sửa sang vết nhơ ở dưới, như thể trời đã đen lại lúc sau.
Ấy là cảnh trí hôm nay,
và tất cả là như hôm nay cho tới khi có quyết định mới, có thế thôi.
Biết đâu tôi sẽ chết vào ngày mốt?
Nếu tôi chết vào ngày mốt, thì cơn giông ngày mốt
sẽ là một cơn giông khác với cơn giông sẽ có đó nếu như tôi không chết.
Tôi biết rõ rằng cơn giông không bắt nguồn từ mắt tôi,
nhưng nếu tôi không còn ở thế giới này
thì thế giới sẽ khác—
—tôi sẽ khuyết đi ở đó—
và cơn giông sẽ đổ xuống một thế giới khác và không còn là cùng một cơn giông nữa.

*

Cả tôi nữa, tôi cũng biết phỏng đoán.
Nơi mỗi sự vật có cái yếu tính làm nó sinh động.
Nơi cây cỏ yếu tính ấy ở bên ngoài và đó là một nàng tiên nhỏ.
Nơi muông thú đó là một sinh vật ở bên trong và xa xôi.
Nơi con người đó là linh hồn cùng sống với hắn và đã là hắn.
Nơi các thần linh yếu tính ấy có cùng một kích thước
và cùng một không gian như thể xác
và đó là cùng một sự vật với thể xác.

Chính vì thế mà người ta nói rằng thần linh không bao giờ chết.
Chính vì thế mà thần linh không có một thể xác và một linh hồn,
mà chỉ có một thể xác, và thật là hoàn hảo.
Chính thể xác đã thay thế linh hồn nơi họ
và các vị thần có ý thức ngay trong chính xác thân thần thánh của mình.

*

Những gì có ở bên kia lối ngoặt của con đường
có thể là một vực thẳm, có thể là một tòa lâu đài,
và cũng có thể chỉ là con đường tiếp tục.
Tôi không biết và tôi không đặt câu hỏi.
Bao lâu tôi còn đi trên con đường trước lối ngoặt,
tôi hài lòng nhìn con đường trước lối ngoặt,
là vì tôi không thể thấy gì khác hơn.
Nếu như tôi nhìn về phía bên kia
và về phía mà tôi không thấy,
tôi có tiến bộ hơn chăng?
Ta chỉ nên chăm lo tới nơi mình đang ở.
Đã có khá nhiều cái đẹp trong việc ta ở đây, chứ không phải ở nơi nào khác.
Có chăng ai đó ở bên kia lối ngoặt của con đường,
những kẻ băn khoăn tới những gì có ở bên kia lối ngoặt của con đường,
đối với họ, ấy chính là con đường.
Nếu như ta phải tới đó, khi tới nơi ta sẽ biết.
Trong lúc này ta chỉ biết rằng ta không có đó.
Ở đây chỉ có con đường trước lối ngoặt, và trước lối ngoặt
có con đường không một lối ngoặt.

*

Trên mọi vật tuyết đã trải tấm khăn lặng lẽ.
Chỉ còn nghe những gì diễn ra trong nhà.
Tôi cuộn mình trong chăn và không buồn nghĩ tới cả suy nghĩ.
Tôi cảm thấy một niềm vui thú vật và mơ hồ tôi nghĩ
và tôi thiếp đi hữu ích chẳng kém gì mọi hành động của thế giới.

*

Đây có lẽ là ngày cuối cùng của đời tôi.
Tôi đưa bàn tay phải lên chào mặt trời,
nhưng tôi không chào mặt trời bằng cách nói lời từ biệt—
không, đúng hơn thời bằng cách ra hiệu rằng tôi sung sướng được thấy mặt trời: thế thôi.

¬¬¬¬_____

«FERNANDO PESSOA là thi sĩ lớn nhất và đặc biệt nhất của Bồ-đào-nha», các nhà nhận định văn nghệ thường thêm: «kể từ thời Phục hưng» hay «kể từ Camöens», một thi hào khác của xứ ông.
Pessoa sinh tại thủ đô Lisboa ngày 13 tháng Sáu 1888. Khi ông mới lên năm thì cha mất và tới năm lên tám, ông đã phải theo mẹ qua Durban, Nam Phi nơi dượng ghẻ ông làm lãnh sự. Đây cũng là nơi Pessoa theo học các trường Anh, thấm nhuần văn hóa Anh để sau này sáng tác bằng ngôn ngữ của Shakespeare. Đúng vào năm bước vào đại học (1905), Pessoa phải trở về Bồ-đào-nha. Ông ghi tên theo học Triết lý tại đại học Văn khoa ở Lisboa được hai năm thì bỏ, nhân một cuộc bãi khóa của sinh viên.
Kế đó, ông mở một xưởng in lấy tên là Ibis. Công cuộc này thất bại, ông nhận việc phiên dịch thư từ thương mại cho các hãng buôn để độ nhật và theo đuổi công việc «khiêm tốn» này cho tới ngày ông mất (30.11.1935). Các nhà nghiên cứu tỉ mỉ ghi nhận: từ năm 1905 đến năm 1935, Pessoa đã lần lượt cư ngụ tại chín địa chỉ khác nhau, nhưng ông không rời Lisboa nữa.
Pessoa sống độc thân. Người ta chỉ biết có một mối tình duy nhất giữa ông và cô Ophelia Queiroz, mối tình mà cuối cùng Pessoa đã phải thoái thác vì «định mệnh của tôi», như ông viết trong thư từ biệt, «thuộc về một Lề luật khác mà em không ngờ tới cả sự hiện hữu…» Ông cũng khước từ một ghế giảng sư đại học mà người ta đã có nhã ý dành cho ông.
Bí mật của Pessoa có lẽ là sự say mê văn nghệ: ông làm thơ, viết truyện, viết kịch, viết khảo luận, phê bình…, viết bằng tiếng mẹ đẻ, bằng Anh văn, bằng Pháp văn, sáng lập và cộng tác với nhiều tạp chí, khởi xướng nhiều trường phái văn nghệ… Thế nhưng, sinh thời, dưới tên thực Fernando Pessoa, ông chỉ in được một tập thơ nhỏ bằng tiếng Bồ tựa là Mensagem (1934) và một vài tập thơ mỏng viết bằng Anh văn. Chuyện nực cười ở đây: sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ của «nhà thơ vĩ đại nhất kể từ Camöens» đã đem lại cho ông một giải thưởng thi ca… hạng nhì! (Giải nhất về tay một ông linh mục). Cho tới ngày Pessoa mất, phần lớn các tác phẩm của ông còn nằm rải rác trên các tạp chí văn nghệ hoặc còn là bản thảo. Năm 1982, Thư viện quốc gia ở Lisboa nhận được một «rương» bản thảo của Pessoa gồm 27.543 bản, trong đó có tới 25.425 bản do Pessoa viết tay. Chính chiếc rương này mỗi ngày lại đem lại thêm một dáng vẻ mới của Pessoa, vì cho tới nay người ta vẫn chưa in được hết «Tác phẩm toàn tập» của ông!*
Pessoa trong tiếng Bồ có nghĩa là «không ai cả» và theo từ nguyên còn có nghĩa là chiếc mặt nạ của các diễn viên sân khấu (La-mã). Ngay từ năm 25 tuổi, Pessoa đã có tham vọng «một mình trở thành cả một nền văn chương» của Bồ-đào-nha, và quả thật, Fernando Pessoa đã trở thành, không phải một mà là rất nhiều tác giả cùng một lúc. Vì ông, theo bản kiểm kê hồi gần đây, đã «tạo ra» trên bảy mươi danh hiệu với số tác phẩm nhiều ít, khác biệt, thuộc đủ loại như thơ, truyện, bút ký, phê bình,… và cả triết lý nữa…! Trong các «dị danh» (hétéronymes) của ông nổi bật các tên tuổi như Alberto Caeiro, Ricardo Reis, Álvaro de Campos, Bernardo Soares, C. Pacheco,… Đây không phải là những biệt hiệu khác nhau của cùng một tác giả như ta thường thấy. Với mỗi danh hiệu này, Pessoa đã «thực hiện» cả một tiểu sử tỉ mỉ, một quan niệm sống tách biệt và nhất là một bút pháp riêng, khác nhau và khác với chính ông, vì Fernando Pessoa còn viết dưới tên thực của mình! Theo Pessoa, «tác phẩm viết bằng ‘biệt hiệu’ (pseudonyme) là tác phẩm của «chính con người» tác giả thiếu chữ ký tên thực của ông; tác phẩm ‘dị danh’ (hétéronyme) là tác phẩm của tác giả «ở ngoài con người của ông»; ấy là tác phẩm của một nhân vật hay nhân cách hoàn toàn do ông tạo ra, cũng như những lời đối đáp của một nhân vật xuất phát từ một kịch bản sân khấu nào đó do tay ông viết ra.» Chính bởi thế mà Pessoa đã để cho Alberto Caeiro (1889-1915), «thi sĩ duy nhất của Thiên nhiên», viết những lời thơ giản dị; Álvaro de Campos (1890- ), «một kỹ sư hàng hải được đào tạo ở Glasgow» tin ở những cảm giác, «rất Whitman»; Ricardo Reis (1887- ), «một y sĩ chuyên nghiệp, sống biệt xứ ở Ba-tây từ năm 1919», thiên trọng về hình thức; Bernardo Soares, viên phụ tá kế toán, ngồi ghi chép và phân tích cái thế giới giả tưởng của mình trong Bất an thư,…
Trong tất cả các tác giả-nhân vật của Pessoa này, Alberto Caeiro, theo phân tích của nhà thơ Mễ-tây-cơ Octavio Paz, chính là «vầng thái dương, xoay chung quanh đó là Reis, Campos và ngay cả Pessoa nữa». Tất cả các tác giả-nhân vật nói trên và chính Pessoa đều coi Caeiro như «bậc thày» của họ. Caeiro sinh tại Lisboa năm 1889, mất vì lao phổi năm 1915. Là một người tầm thước, tóc hung, chỉ học tới tiểu học và sống tại miền quê (trong một ngôi nhà nhỏ ở đỉnh đồi). Vì mệnh yểu, ông chỉ «để lại» một số tác phẩm ngắn — khoảng hơn một trăm bài — tất cả đều là thơ tự do hoặc thơ không vần. Tính cách tiêu biểu của những bài này là sự giản dị, như tâm hồn Caeiro!
Trong thư gửi Adolfo Casais Montero ngày 13. 1. 1935, Pessoa cho biết về cuộc «gặp gỡ» của ông với Alberto Caeiro như sau: «Hôm ấy là ngày 8. 3.1914 – tôi lại gần một chiếc tủ ngăn khá cao và lấy một tờ giấy khởi sự viết, đứng mà viết như tôi vẫn làm như vậy mỗi khi có thể được. Và tôi đã viết liên tiếp hơn ba mươi bài thơ trong một thứ say sưa mà tôi không sao xác định được tính chất. Ấy là ngày toàn thắng của đời tôi, và không bao giờ tôi còn được biết tới một ngày tương tự. Tôi khởi đi từ cái tựa Người chăn giữ đàn thú. Và điều kế đó là sự xuất hiện nơi tôi của một người mà tôi lập tức kêu bằng Alberto Caeiro. Xin thứ lỗi cho kiểu nói này: Caeiro đã xuất hiện với tôi như một bậc thày của tôi.(…)» Kế đó, Pessoa cho biết tiếp, ông đã lấy một tờ giấy khác và cũng viết «một hơi» sáu bài thơ hợp thành bài «Mưa nghiêng» của… Fernando Pessoa, khác hẳn những bài trên.
Một đoạn khác có thể cho thấy vị trí chính xác của các tác giả «xuất hiện nơi ông» đối với chính Pessoa. Trong một ghi chú, được công bố lần đầu tiên vào năm 1960, nhan đề «Về bài thơ VIII trong tập Người chăn giữ đàn thú», Pessoa viết:
«… Tôi đã xây dựng nơi tôi nhiều nhân vật khác nhau, phân biệt với nhau và với chính tôi, những nhân vật mà tôi đã gán cho những bài thơ khác nhau, những bài thơ chiếu theo cảm nghĩ của tôi, không phải là những bài tôi sẽ viết.
«Phải coi những bài thơ này của Caeiro, của Ricardo Reis, và của Álvaro de Campos như thế. Không nên tìm nơi bất cứ bài nào trong các bài đó những ý kiến hay những tình cảm của tôi, là vì có nhiều bài trong các bài đó diễn tả những ý kiến mà tôi không chấp nhận, những tình cảm mà tôi không bao giờ cảm thấy. Những bài ấy thế nào chỉ cần đọc chúng như thế, vả lại, ấy là cách đọc đúng đắn.
«Một thí dụ: tôi đã viết với một cái nhún vai ghê tởm bài thơ thứ tám (VIII) trong Người chăn giữ đàn thú, với sự phạm thượng thật trẻ con và sự chống đối duy linh tuyệt đối của nó. Trong con người riêng của tôi, và rõ rệt là con người thật sự, con người mà tôi sống với xã hội và khách quan, tôi không bao giờ sử dụng tới sự phạm thượng, và tôi không phải là một người chống duy linh. Alberto Caeiro tuy vậy, theo tôi quan niệm, là như thế; vậy thời Caeiro phải viết như thế, dù tôi có muốn thế hay không. Chối bỏ của tôi cái quyền xử sự như thế có khác nào chối bỏ cái quyền của Shakespeare được biểu hiện tâm hồn Macbeth Phu nhân, viện cớ là ông, người thi sĩ, không phải là một phụ nữ, cũng chẳng phải là, theo chỗ người ta được biết, một kẻ mắc chứng kinh phong-loạn thần kinh…»
Toàn bộ tác phẩm của Alberto Caeiro, gồm Người chăn giữ đàn thú (49 bài), Người mục tử si tình, và Những bài thơ rời, đã được dịch sang tiếng Việt dựa trên các bản dịch Pháp, Anh và đối chiếu với nguyên tác.