Thơ Tomas Transtromer

 

 TOMAS TRANSTRÖMER
Sinh: 15 tháng 4, 1931, Stockholm, Thụy Điển
Mất: 26 tháng 3, 2015, Stockholm, Thụy Điển

 

Hàn Lâm Viện Thụy Điển vừa công bố quyết định trao giải thưởng Nobel văn chương năm 2011 cho nhà thơ Tomas Tranströmer, người được xem là nhà thơ lớn và có ảnh hưởng nhất của Thụy Điển trong mấy thập niên vừa qua.

Sinh ngày 15 tháng Tư 1931 tại Stockholm trong một gia đình trí thức và có truyền thống văn học (cha là một nhà báo và mẹ là một giáo viên), Tranströmer học cổ ngữ Latin ngay từ trung học. Lên đại học, ông học về tâm lý học và lịch sử văn học cũng như lịch sử tôn giáo. Tốt nghiệp năm 1956, ông làm việc trong ngành tâm lý học (chuyên về thiếu niên phạm pháp). Năm 1990, sau một cơn đột quỵ, ông bị bán thân bất toại và hoàn toàn không nói được nữa. Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục viết văn, làm thơ và xuất bản một số tác phẩm quan trọng. Ngoài ra, ông vẫn tiếp tục chơi piano chỉ với một bàn tay còn cử động được.

Có lẽ do công việc và bệnh tật, số lượng tác phẩm của Tranströmer không nhiều như nhiều tác giả lớn khác cùng lứa tuổi (80). Tổng cộng, ông chỉ có khoảng 20 cuốn sách, bao gồm thơ, dịch thuật, phê bình và hồi ký. Tuy nhiên, về chất lượng thì hầu như tác phẩm nào cũng được khen ngợi.

Tranströmer làm thơ từ lúc mới 13 tuổi và gửi thơ đăng báo từ lúc ông còn là học sinh trung học. Năm 1954, hai năm trước khi tốt nghiệp đại học, ông cho xuất bản tập thơ đầu tay, 17 dikter (17 bài thơ). Tập thơ tức khắc gây nên một tiếng vang sôi nổi, được giới phê bình đón nhận như một khởi đầu đẹp của một tài năng thi ca lớn. Sau đó, ông liên tiếp cho xuất bản một số tập thơ khác, như Hemligheter på vägen (Những bí mật dọc đường, 1958), Den halvfärdiga himlen (Thiên đường nửa vời, 1962), và Klanger och spår (Cửa sổ và đá,1966). Tất cả các tập này cũng được tiếp nhận nồng nhiệt. Chúng củng cố vị thế của ông như là một nhà thơ lớn nhất của thế hệ của ông.

Từ đầu thập niên 1960, Tranströmer làm bạn với nhà thơ Robert Bly của Mỹ. Tình bạn thân thiết này đẫn đến những sự hợp tác tốt đẹp trong lãnh vực văn học. Robert Bly trở thành một trong những người dịch và giới thiệu thơ của Tranströmer với công chúng Mỹ. Từ các bản dịch tiếng Anh ấy, thơ của Tranströmer càng ngày càng đi xa khắp thế giới. Đến nay các tuyển tập thơ của ông đã được dịch khoảng trên 50 ngôn ngữ khác nhau.

Trong cuộc đời sáng tác của ông, Tranströmer nhận được rất nhiều giải thưởng quan trọng như các giải: Aftonbladets Literary Prize, Bonnier Award for Poetry, Neustadt International Prize for Literature, Oevralids Prize, Petrarca-Preis (Đức), Golden Wreath of the Struga Poetry Evenings và Swedish Award from International Poetry Forum. Năm 2007, Tranströmer nhận được giải thưởng Griffin về thơ đồng thời giải thưởng đặc biệt về Toàn bộ Sự nghiệp Văn học (Lifetime Recognition Award) do Griffin Trust for Excellence in Poetry trao tặng. Với giải Nobel năm nay, Tranströmer trở thành người Thụy Điển thứ chín nhận được giải thưởng vinh dự này.

Khác với nhiều tác giả khác cũng được giải Nobel, ví dụ nhà văn Peru Mario Vargas Llosa năm ngoái, Tranströmer ít quan tâm đến các vấn đề chính trị xã hội trên đất  nước ông cũng như trên thế giới. Ông sống khá ẩn dật, không có quan hệ sâu sắc với bất cứ tờ báo, nhà xuất bản, trường đại học hay một tổ chức nào. Ông hiếm khi xuất hiện trước đám đông hay phát biểu điều gì liên quan đến thời sự. Nhưng thơ ông, như lời nhận xét của Peter Englund, thư ký thường trực của Hàn Lâm Viện Thụy Điển, có ý nghĩa khai sáng rất lớn: “Qua những hình ảnh cô đúc và trong mờ, Transtromer đã mở ra cho chúng ta một cách nhìn mới về hiện thực. Ông viết về những vấn đề lớn: về cái chết, lịch sử, ký ức, thiên nhiên. Bạn không bao giờ cảm thấy nhỏ bé sau khi đọc thơ của Tomas Transtroemer.” (Through his condensed, translucent images, he gives us fresh access to reality. He is writing about the big questions: about death, history, memory, nature. You never feel small after reading the poetry of Tomas Tranströmer).

Daniel Halpern, chủ tịch nhà xuất bản Ecco ở Mỹ nhận xét: “Thơ, không những ở đất nước này, mà hầu như ở mọi nơi, đều nhỏ bé và đầy tính chất riêng tư; nó không nhìn ra ngoài, nó hướng nội. Nhưng có một số nhà thơ rõ ràng là viết những bài thơ có tính chất quốc tế. Tranströmer chính là một nhà thơ thông minh, mở rộng và mới lạ như thế.” Neil Astley, biên tập viên nhà xuất bản Bloodaxe Books ở Anh, gọi Transtromer là một nhà thơ đầy viễn kiến siêu hình học” (a metaphysical visionary poet). Có lẽ đó là một nhận xét chính xác nhất về đặc điểm thơ của Tranströmer.

Tranströmer tự mô tả thơ ông là những tụ điểm (meeting places), “nơi ánh sáng và bóng tối, nội tâm và ngoại giới xung đột để tạo nên những nối kết bất ngờ với thế giới, lịch sử và với chính chúng ta.” Để đạt được điều đó, Tranströmer thường quan tâm đến việc làm mới ngôn ngữ. Có lần ông phát biểu: “Ngôn ngữ đồng hành với các đao phủ thủ. Bởi vậy, chúng ta phải tạo ra một ngôn ngữ mới” (The language marches in step with the executioners. Therefore we must get a new language). Cái mới trong ngôn ngữ thơ của Tranströmer thường nằm ở hình tượng. Nhiều nhà phê bình trên thế giới cho ông là một bậc thầy về ẩn dụ (a master of metaphor).

Một số bài thơ được dịch sau đây có thể cho thấy ít nhiều về phong cách ấy của ông.

Phan Quỳnh Trâm

 

 

 

NHỮNG BẢN DỊCH CỦA LÊ NGUYÊN TỊNH

 

Tháng tư và thinh lặng

 

Mùa xuân nằm hiu quạnh.

Mương nước màu nhung sẫm

bò trườn cạnh tôi, không phản chiếu.

Chỉ có những đoá hoa vàng

toả sáng.

Tôi được mang vác trong chiếc bóng của tôi

như một cây đàn vĩ cầm trong chiếc hộp đen.

Điều duy nhất tôi muốn nói

đang lấp lánh bên ngoài tầm tay

như món đồ bạc

trong một hiệu cầm đồ.

 

 

 

Phong cảnh với những mặt trời

 

Mặt trời nhô lên từ sau nhà

đứng sừng sững giữa đường

và hít thở trên chúng ta

với ngọn gió đỏ của nó.

Innsbrück, ta phải xa ngươi.

Nhưng ngày mai

sẽ có một mặt trời cháy rực

trong khu rừng xám chết dở

nơi chúng ta phải làm việc và sống.

 

 

 

Giữa mùa đông

 

Một ánh sáng xanh

toả chiếu từ quần áo tôi.

Giữa mùa đông

Những chiếc trống lục lạc bằng nước đá rung lách cách.

Tôi khép mắt lại.

Có một thế giới thinh lặng

có một vết nứt

nơi người chết

được lén mang qua biên giới

 

 

 

——————————-

Lê Nguyên Tịnh dịch từ các bản tiếng Anh: “April and silence”, “Landscape with suns” và “ Midwinter”, của Michael McGriff & Mikaela Grassl, trong Tomas Tranströmer’s Latest Poetry Collection: An Excerpt, “Speakeasy”, The Wall Street Journal (October 6, 2011).

 

Hoàng Ngọc-Tuấn hiệu đính qua sự đối chiếu với các bản dịch tiếng Anh khác của Malena Mörling, Patty Crane, James Michael Wine, và Mark Thwaite.

 

 

 

 

NHỮNG BẢN DỊCH CỦA PHAN QUỲNH TRÂM

 

Thán ca

 

Hắn buông bút xuống

Nó nằm đó bất động

Nó nằm đó bất động trong một không gian trống tuếch.

Hắn buông bút xuống.

 

Có quá nhiều điều không thể viết cũng không thể giữ lại trong lòng!

Thân thể hắn tê cứng bởi điều gì đó xảy ra, xa lắc

qua cái túi ngủ kỳ lạ phập phồng như một trái tim.

 

Bên ngoài, cuối xuân.

Từ tán cây một tiếng huýt sáo – của người hay chim nhỉ?

Và những cây anh đào nở hoa phe phẩy vào những chiếc xe tải nặng trĩu trên đường về nhà.

 

Những tuần lễ trôi qua.

Đêm chầm chậm đến.

Những con bướm đêm đậu trên khung cửa:

những bức điện tín nhỏ bé xanh xao từ thế giới.

 

 

———————

Dịch từ bản dịch tiếng Anh “Lamento” của Robert Bly in trong Tomas Tranströmer, Selected Poems, Robert Hass biên tập (The Ecco Press, 1987).

 

 

Đường ray

 

Đêm, hai giờ sáng: ánh trăng. Xe lửa đã dừng

giữa cánh đồng. Những chấm sáng xa lắc trong thành phố

lấp lánh lạnh lẽo nơi đường chân trời.

 

Như khi ai đó đã chìm quá sâu trong giấc mơ

sẽ không bao giờ hắn có thể nhớ mình đã ở đó

lúc trở lại căn phòng.

 

Như khi ai đó đã ở quá sâu trong bệnh tật

những ngày tháng cũ trở thành những điểm nhấp nháy, một chùm,

lạnh lẽo và yếu ớt ở chân trời.

 

Xe lửa đang đứng yên.

2 giờ sáng: trăng tròn, vài ngôi sao.

 

 

 

Phác hoạ tháng mười

 

Một chiếc tàu kéo lốm đốm gỉ sét. Nó đã làm gì từ đó đến nay

trên đất liền?

Đó là một chiếc đèn nặng trĩu tắt ngúm trong giá rét

Nhưng những hàng cây có màu sắc hoang dã: gửi tín hiệu đến bờ bên kia.

Như thể những con người muốn được mang đi.

 

Trên đường về nhà, tôi thấy nấm mọc

xuyên qua bãi cỏ.

Chúng là những ngón tay, đang vươn ra cầu cứu, của một ai đó

đã từ lâu nức nở khóc thầm trong bóng tối dưới kia

Chúng ta là con người trên mặt đất.

 

 

 

Dưới độ đóng băng

 

Chúng tôi đang dự một buổi tiệc không ưa chúng tôi. Cuối cùng buổi tiệc để rơi mặt nạ và lộ nguyên hình: nó là một bến đổi cho những tàu chở hàng. Trong sương mù những khối khổng lồ lạnh lùng đứng trên đường ray. Vết phấn nguệch ngoạc trên cửa tàu.

 

Người ta không thể nói lớn, nhưng có rất nhiều bạo động bị đè nén ở đây. Đó là lý do tại sao các đồ trang bị trông có vẻ quá nặng nề. Và tại sao rất khó để thấy sự hiện diện của những thứ khác: một vạt nắng di chuyển trên những bức tường nhà và lướt qua một rừng những khuôn mặt vô tình nhấp nhánh, một câu thánh kinh chưa bao giờ được chép xuống: “Hãy đến với tôi, bởi tôi cũng đầy những mâu thuẫn như bạn.”

 

Sáng hôm sau tôi làm việc ở một thị trấn khác. Tôi lái xe vun vút trong buổi bình minh giống như một chiếc xi lanh màu xanh thẫm. Sao Thiên Lang treo lơ lửng trong băng giá. Trẻ em đứng trong một đám đông im lặng, đợi những chiếc xe buýt của trường, những đứa con nít không ai mong đợi. Ánh sáng mọc lên dần như tóc của chúng tôi.

 

 

———————

Dịch từ bản dịch tiếng Anh “Tracks” của Robert Bly in trong A Book of Luminous Things – An International Anthology of Poetry, Czeslaw Milosz biên tập (Harvest Books, 1998); “Sketch in October” của Robin Fulton và “Below Freezing” của Robert Bly in trong The Vintage Book of Comtemporary World Poetry, J.D. McClatchy biên tập (Vintage Books: 1996).

 

 

 

 

NHỮNG BẢN DỊCH CỦA LÊ ĐÌNH NHẤT LANG
Gọi về nhà

 

Một cú điện thoại chảy tràn vào đêm, và nó lấp loáng đây đó

trên những cánh đồng, và ở những vùng ngoại thành.

 

Sau đó tôi ngủ không yên trên giường khách sạn.

 

Tôi giống cây kim địa bàn người chạy định hướng mang theo

khi anh chạy với quả tim đập mạnh.

 

 

———————

Nguồn: Dịch từ bản dịch Anh ngữ của Robert Bly bài thơ “Calling Home” trong Tomas TranströmerThe Half-Finished Heaven (Saint Paul MN: Graywolf Press, 2001).

 

 

 

Vùng ngoại thành

 

Những người đàn ông mặc đồ công nhân cùng màu với đất đi

lên từ một cái hào.

Ðây là một chỗ chuyển tiếp, trong bế tắc, không phải đồng quê

cũng chẳng phải thành phố.

Các cần cẩu nơi chân trời muốn làm cú nhảy lớn, nhưng lũ

đồng hồ chống lại.

Những ống bê tông rải rác khắp nơi liếm ánh sáng bằng những

chiếc lưỡi lạnh.

Những tiệm sửa xe hơi chiếm cứ chuồng ngựa cũ.

Những tảng đá hắt bóng sắc như những vật thể trên mặt trăng.

Và những chỗ này cứ mãi lớn ra

như mảnh đất mua bằng số bạc của Juda: “một mảnh sân của

thợ gốm để chôn những kẻ lạ.”

 

 

 

Vài khoảnh khắc

 

Cây thông lùn trên đất lầy ngẩng đầu lên: một miếng

giẻ sậm màu.

Nhưng cái bạn thấy chẳng là gì so với các sợi rễ,

cả hệ thống rễ đang lan rộng, mầy mò một cách bí mật, bất tử

hay nửa bất tử.

 

Tôi anh ông ta bà ta cũng đặt rễ ra.

Ở ngoài ý muốn chung của chúng ta.

Ở ngoài Thành Phố.

 

Mưa trôi dạt từ bầu trời mùa hè nhợt nhạt như sữa.

Cứ như năm giác quan của tôi bị móc lên một tạo vật nào khác

di chuyển với cùng một dòng chảy miên man

như những người áo trắng chạy vòng quanh đường đua trong lúc

đêm về buông sương mờ.

 

 

 

Nhìn xuyên qua đất

 

Mặt trời trắng nóng chảy trong sương khói.

Ánh sáng nhỏ giọt, đi dần xuống tới

 

đôi mắt dưới mặt đất của tôi, chúng đang ở đó

bên dưới thành phố, và chúng trông thấy thành phố

 

từ phía dưới: đường sá, nền nhà—

như những tấm không ảnh của một thành phố thời chiến

 

tuy lộn ngược: loại ảnh của bọn chuột chũi . . .

những hình chữ nhật lặng thinh trong màu sắc ảm đạm.

 

Mọi điều được quyết định ở đó. Không ai phân biệt được

xương người chết với xương người sống.

 

Ánh mặt trời mạnh thêm, tràn vào

những phòng lái và những vỏ đậu.

 

 

 

Kịch bản lửa

 

Trong những tháng nặng nề cuộc đời tôi chỉ bén lửa khi

tôi làm tình với em.

Cả con đom đóm cũng sáng lên rồi tắt, sáng lên rồi tắt

—liếc nhanh ta dõi theo con đường của nó

giữa đám cây ô-liu trong bóng tối của đêm.

 

Trong những tháng nặng nề linh hồn ngồi

lười biếng và nhàu nát,

nhưng thể xác đi con đường ngắn nhất tới em.

Những cõi trời đêm phát ra tiếng bò rống.

Chúng ta trộm sữa của vũ trụ và sống còn.

 

 

 

Những bưu thiếp đen

 

I.

Cuốn lịch đã ghi đầy, tương lai chưa rõ.

Dây cáp lặng lẽ ngân nga bài dân ca nào đó

nhưng thiếu một quê hương. Tuyết rơi trong biển xám. Những cái bóng

thanh toán nhau nơi bến tàu.

 

II.

Nửa đường qua đời em, thần chết hiện lên

và lấy ở em những số đo thích hợp. Chúng ta quên

chuyến viếng thăm ấy. Ðời sống tiếp tục. Nhưng ai đó đang khâu

bộ đồ trong thinh lặng.

 

 

 

Những vòm Romanesque

 

Du khách kéo vào đông nghẹt trong cái nhá nhem của ngôi

nhà thờ Âu Châu cổ khổng lồ.

Vòm này mở ra sau vòm nọ và không viễn cảnh.

Vài ngọn lửa nến lung linh.

Một thiên thần tôi không thể thấy mặt ôm lấy tôi

và lời thì thầm của ông xuyên khắp thân tôi:

“Ðừng xấu hổ khi làm một con người, hãy hãnh diện!

Ở trong ngươi vòm này tiếp theo vòm khác mở ra không hết.

Ngươi không bao giờ hoàn tất, và như vậy mới phải cách.”

Nước mắt làm tôi mù

khi cả bầy chúng tôi được dẫn ra tới quảng trường nắng chói chang,

cùng với Mr. và Mrs. Jones, Herr Tanaka và Signora Sabatini;

trong mỗi người họ vòm tiếp theo vòm mở ra không hết.

 

 

 

Hai thành phố

 

Có một dải nước, mỗi bên một thành phố—

một trong hai hoàn toàn tối, nơi kẻ thù sống.

Ðèn đang sáng trong thành phố kia.

Bờ sáng thôi miên bờ tối.

 

Tôi bơi ra trong một cơn mê

trên mặt nước đen lấp lánh.

Một tiếng kèn tu ba đều đặn dâng lên.

Giọng một người bạn: “Xách cái mả anh lên rồi đi đi.”

 

 

 

Ba đoạn

 

I.

Hiệp sĩ và giai nhân

hoá đá nhưng hạnh phúc

trên một cái nắp mả đang bay

bên ngoài thời gian.

 

II.

Jesus giơ lên đồng tiền

có hình nghiêng Tiberius.

Một hình nghiêng không tình yêu—

quyền lực tái chế biến.

 

III.

Một thanh gươm ướt

chùi đi mọi ký ức.

Trên cánh đồng kèn trompet

và dây đeo gươm đang rỉ.

 

 

——————–

Nguồn: Dịch từ bản dịch Anh ngữ của Robert Bly các bài thơ “Outskirts”, “A Few Moments”, “Seeing through the Ground”, “Fire Script”, “Black Postcards”, “Romanesque Arches”, “Two Cities”, và “Three Stanzas” trong Tomas TranströmerThe Half-Finished Heaven (Saint Paul MN: Graywolf Press, 2001).

 

 

 

Cơn bão

 

Người đàn ông trên một lối đi bộ bỗng nhiên gặp cây

sồi cổ đại như một con nai sừng tấm hoá đá với

cặp sừng khổng lồ nổi lên trên tường thành màu lục đậm

của đại dương mùa thu.

 

Cơn bão từ phương bắc. Ðã gần đến lúc quả

thanh hương trà chín tới. Thao thức trong đêm hắn

nghe thấy những chòm sao xa phía trên cây sồi

giậm chân trong chuồng.

 

 

 

Người đàn ông bị đánh thức

bởi một bài hát phía trên mái nhà

 

Sáng. Mưa tháng Năm. Thành phố vẫn im lìm

như túp lều của một người chăn cừu. Ðường sá im lìm. Và trên

trời một động cơ máy bay đang ầm ầm màu lục hơi xanh lơ.—

Cửa sổ mở.

 

Giấc mơ của người đàn ông đang ưỡn người ngủ

trong giây phút đó trở thành trong suốt. Hắn trở mình, bắt đầu

mò mẫm dụng cụ của ý thức hắn—

gần như trong không gian.

 

 

 

Kyrie

 

Thỉnh thoảng cuộc đời tôi mở to mắt trong bóng tối.

Một cảm giác về những khối người xô đẩy mù quáng

qua đường phố, một cách khích động, đi về một phép lạ nào đó,

trong khi tôi nằm đây và không ai trông thấy tôi.

 

Cũng giống như một đứa trẻ thiếp ngủ trong khiếp sợ

lắng nghe tiếng đập nặng nề của tim nó.

Trong một lúc lâu, thật lâu tới khi bình mình đặt ánh sáng vào ổ khoá

rồi cánh cửa của bóng tối mở ra.

 

 

 

Cặp vợ chồng

 

Họ tắt đèn đi, và quả cầu trắng của nó rực lên

trong giây lát rồi tan ra, như một viên thuốc

trong một cái ly của bóng tối. Rồi một cuộc nổi dậy.

Những bức tường khách sạn đâm lên bóng đêm cõi trời.

 

Những cử động của họ yếu dần, và họ ngủ,

nhưng những ý nghĩ thầm kín nhất của họ bắt đầu gặp gỡ

như hai màu gặp gỡ và loang vào nhau

trên tờ giấy ướt trong bức vẽ của một cậu học trò.

 

Trời tối và yên tĩnh. Tuy nhiên thành phố đã tới gần

đêm nay. Với các cửa sổ của nó đóng lại. Nhà cửa kéo tới.

Chúng đứng chen chúc và chờ đợi rất gần,

một đám đông người với những khuôn mặt trống rỗng.

 

 

 

Cái cây và bầu trời

 

Cái cây bước quanh trong cơn mưa

đi qua chúng ta trong màu xám ướt át.

Nó có một việc phải làm. Nó nhặt sự sống ra khỏi cơn mưa

như một con sáo trong vườn anh đào.

 

Khi mưa vừa dứt, cái cây cũng ngừng.

Nó chỉ đứng đó, không động đậy trong những đêm quang đãng,

chờ y như chúng ta chờ tới cái thời điểm đó

khi những bông tuyết tự quăng mình ra không gian.

 

 

 

Một đêm đông

 

Cơn bão đặt môi nó vào căn nhà

và thổi để làm một tiếng động.

Tôi ngủ không yên, trở mình, với mắt

nhắm đọc cuốn sách của cơn bão.

 

Nhưng mắt đứa trẻ mở lớn trong bóng tối

và cơn bão khóc thút thít cho đứa trẻ.

Cả hai thích xem bóng đèn đong đưa.

Cả hai đang ở nửa đường đi tới tiếng nói.

 

Những cơn bão có tay như trẻ em và có cánh.

Ðoàn xe vùng chạy về phía Lapland

và căn nhà cảm nhận được những chùm đinh

giữ những bức tường của nó lại với nhau.

 

Ðêm yên tĩnh bên trên tầng của chúng tôi

(nơi mọi bước chân đã chết đi

đang nằm như những chiếc lá chìm trong ao

nhưng bên ngoài thì đêm dữ dội!)

 

Một cơn bão nghiêm trọng hơn đang qua trên tất cả chúng ta.

Nó đặt môi vào linh hồn ta

và thổi để làm một tiếng động. Ta sợ

cơn bão sẽ thổi bay hết mọi thứ trong ta.

 

 

 

Dáng thẫm đang bơi

 

Một bức hoạ Thời Ðồ Ðá

trên một tảng đá Sahara:

một hình dáng mờ nhạt bơi

trên một dòng sông nguyên sơ cổ đại.

 

Không có vũ khí, không một kế hoạch,

không nghỉ ngơi mà cũng không vội vã,

người bơi tách ra khỏi cái bóng của hắn

đang tuột lại dọc theo đáy sông.

 

Hắn đã chiến đấu để vượt thoát

khỏi hàng triệu chiếc lá đang ngủ,

để tới được bờ bên kia

và nhập lại vào cái bóng của hắn.

 

 

 

Nhạc chậm

 

Toà nhà không mở cửa hôm nay. Nắng chen vào qua những khung cửa sổ

và làm ấm mặt trên của cái bàn giấy

đủ mạnh để mang số mạng của những kẻ khác.

 

Hôm nay chúng tôi ở ngoài trời, trên triền dốc dài rộng.

Vài người mặc đồ sậm. Nếu bạn đứng trong nắng, và nhắm mắt lại,

bạn cảm thấy như bạn đang được thổi về phía trước.

 

Tôi rất ít khi xuống tới biển. Nhưng lúc này tôi đã tới,

giữa những tảng đá cỡ lớn với những tấm lưng êm ả.

Những tảng đá đã đi lùi dần ra khỏi biển.

 

 

 

Khoảng thở tháng Bảy

 

Người đàn ông nằm ngửa dưới những đại thụ

hắn cũng ở trên cây. Hắn phân ra thành hàng ngàn nhánh nhỏ.

Hắn lắc lư qua lại,

hắn ngồi trên chiếc ghế giàn phóng ầm ầm đi tới trong cảnh quay chậm.

 

Người đàn ông đứng dưới ụ tàu vít cặp mắt mình vào mặt nước.

Ụ tàu già nhanh hơn người ta.

Chúng có những cây cột xám bạc và đá cuội trong ruột chúng.

Ánh sáng loá mắt đâm thẳng vào.

 

Người đàn ông nằm nguyên ngày trên một con thuyền không mui

đang đi qua những bờ vịnh phát sáng

cuối cùng sẽ ngủ thiếp đi bên trong cái chụp đèn xanh của hắn

khi những hải đảo bò như loài bướm đêm khổng lồ trên mặt địa cầu.

 

 

 

NHỮNG BẢN DỊCH CỦA DIỄM CHÂU

 

TRẦM TƯ XAO ĐỘNG

 

Một cơn bão làm xoay tít những chiếc cánh máy xay gió

trong đêm đen, đang nghiền nát trống không. — Mi

mất ngủ cũng vì một lý sự ấy.

Bụng con cá mập xám là ngọn đèn mờ nhạt của mi.

 

Những kỷ niệm mơ hồ chìm xuống đáy đại dương

để sững lại dưới ấy—những pho tượng dị kỳ. —Xanh rêu

là cây nạng của mi. Kẻ

đi biển trở lại hóa đá.

 

 

ĐÁ

 

Những tảng đá chúng ta đã ném tôi nghe rơi rơi,

trong như pha lê qua năm tháng. Dưới lòng thung

bay đi những việc làm hỗn độn của khoảnh khắc

kêu ré từ

đỉnh cây tới đỉnh cây. Trở thành câm nín

trong bầu khí loãng hơn của hiện tại, chúng lướt nhanh

như chim én qua hết ngọn núi này

tới ngọn núi khác, cho đến khi

tới mãi những vùng cao nguyên xa xôi nhất

ở mép lề cuộc sống. Rơi rơi

mọi hành động của chúng ta

trong như pha lê

không vào một đáy sâu nào hết

ngoại trừ ở bên trong chính chúng ta.

 

(17 bài thơ, 1954)

 

 

NHỮNG BÍ MẬT TRÊN ĐƯỜNG

 

Ánh sáng ban ngày đụng phải người nằm ngủ.

Y mơ một giấc mơ xao động hơn

nhưng không tỉnh dậy.

 

Bóng tối đập vào khuôn mặt kẻ đang bước

giữa hết thảy những người khác dưới những tia nóng nảy

của một mặt trời gay gắt.

 

Đột nhiên trời u ám như trước một trận mưa rào.

Tôi đang ở một nơi chứa đựng mọi khoảnh khắc —

một viện bảo tàng bướm*

 

Tuy nhiên mặt trời lúc ấy vẫn mạnh như trước.

Những cây cọ nóng nảy của mặt trời đang vẽ thế giới.

 

(Những bí mật trên đường, 1958)

 

————————-

* «musée de lépidoptères», theo bản Pháp văn. (ND.)

 

 

LISBOA

 

Những chiếc tầu điện màu vàng reo ca trên những con dốc ở khu phố Alfama.

Ở đấy có hai nhà tù. Một dành cho những kẻ trộm cắp.

Những người này vẫy tay qua hàng rào song sắt ở cửa sổ.

Họ kêu la họ muốn được chụp hình!

 

«Nhưng ở đây», người bán vé nói với tôi, nhạo cười như một kẻ ngại ngần,

«ở đây người ta nhốt tù chánh trị đấy». Tôi nhìn cái tiền diện, cái tiền diện, cái tiền diện

và tít trên cao trong một khung cửa sổ, có một người đàn ông

với ống nhòm trước mắt đang ngắm biển.

 

Áo quần phơi phóng trên trời. Các vách tường nóng bỏng.

Những con ruồi đang lần mò dò những chữ nhỏ xíu.

Sáu năm sau tôi hỏi một bà ở Lisboa:

«Có phải là đúng như thế không hay là tôi tưởng tượng ra?»

 

(Hòa âm và vết tích, 1966)

 

 

VỚI DÒNG SÔNG

 

Chuyện trò với những người đồng thời với tôi, tôi đã thấy, tôi đã nghe sau khuôn mặt của họ

dòng sông

đang trôi đi đang trôi đi cuốn theo cùng với nó những người tình nguyện và những người không được tình nguyện như thế

 

Và con người với đôi mắt phết hồ

những muốn ruổi rong giữa dòng chảy

không run rẩy lao mình xuống đấy

trong một nhu cầu giản dị thật dữ dội

 

Qua đi những dòng nước lúc nào cũng ào ạt hơn

như ở đây nơi dòng sông xiết chặt lại và biến thành

thác — ở nơi tôi dừng chân

sau một chuyến đi trong những khu rừng héo khô

 

một buổi chiều tháng Sáu: đài bán dẫn truyền đi tin mới nhất

về phiên họp đặc biệt. Kossyguine, Eban.

Một vài ý tưởng họa hiếm khuấy nhiễu tôi không thôi.

Một vài người họa hiếm ở dưới kia trong làng.

 

Và, dưới cây cầu treo, những khối nước sụp xuống

dưới mắt tôi. Kìa gỗ nổi đã đến. Một vài mình cây

lao thẳng tới như những trái ngư lôi. Những thân cây khác

xoay ngang, xoay vòng vô phương và lười biếng

 

hay bỏ đi hít mạnh đôi bờ

len lỏi giữa đá tảng và củi giạt, kẹt cứng

dồn đống như những bàn tay chắp lại

trơ ra trong tiếng ồn ào huyên náo này…

 

tôi đã thấy, tôi đã nghe trên cây cầu treo

trong một đám mây muỗi

với mấy đứa con trai. Xe đạp của chúng

vùi dưới đám lá xanh — duy những chiếc sừng

ló ra.

 

(Những viễn ảnh ban đêm, 1970)

 

 

GỬI NHỮNG NGƯỜI BẠN Ở BÊN KIA MỘT BIÊN GIỚI

 

I

 

Tôi đã viết cho các bạn thật ít ỏi. Nhưng những gì tôi không thể viết

đã phồng lên và phồng lên như một khinh khí cầu kiểu xưa

và cuối cùng trôi đi qua bầu trời đêm.

 

II

 

Lá thư lúc này ở nơi người kiểm duyệt. Y bật đèn.

Trong ánh sáng chói chang những chữ của tôi bay lên như những con khỉ trên tấm song sắt,

rung lách cách, dừng lại, và nhe răng.

 

III

 

Hãy đọc giữa những hàng chữ. Chúng ta sẽ gặp nhau trong 200 năm nữa

khi những máy vi âm trên vách tường khách sạn bị quên đi

và rốt cuộc có thể ngủ yên, trở thành những giống tôm cua hóa thạch thời nguyên thủy.

 

(Những lối mòn, 1973)

 

 

CÁC CÔNG DÂN

 

Vào đêm sau tai nạn, tôi đã nằm mơ thấy một người đàn ông mặt rỗ

đang hát ngoài con hẻm.

Ấy Danton!

Chứ không phải kẻ kia, không — Robespierre không có những cuộc đi dạo ấy.

Robespierre mất một tiếng đồng hồ buổi sáng vào trang điểm

và hiến cho Dân chúng phần còn lại trong ngày.

Ở thiên đường của châm biếm, giữa những thứ máy móc đạo đức.

Danton —

hay kẻ mang mặt nạ ông —

bước đi như thể đi kheo.

Tôi đã thấy khuôn mặt ông từ dưới thấp:

như một mặt trăng lỗ chỗ

nửa chiếu sáng, nửa buồn thảm.

Tôi đã muốn nói một điều gì đó.

Một khối nặng lớn đè trên con tim, khối nặng

khiến đồng hồ chạy,

xoay những cây kim — Năm I, Năm II…

Một mùi nhức nhối như mạt cưa trong chuồng cọp.

Và — như vẫn trong mơ — không có mặt trời.

Nhưng các vách tường lóe sáng

nơi những con hẻm uốn cong

chạy xuống phía phòng đợi, gian phòng đã uốn cong,

phòng đợi nơi hết thảy chúng ta. . .

 

 

LỐI ĐI NGANG ĐƯỜNG CÓ HÀNG ĐINH

 

Gió lạnh buốt đập vào mắt, và hai hay ba mặt trời

nhảy múa trong ống kính vạn hoa của nước mắt, khi tôi băng qua

con đường mình quá quen biết này,

nơi mùa hè Groenland* sáng lên từ những vũng tuyết.

 

Cuộc sống mạnh mẽ của con đường xoay vần xung quanh tôi;

nó chẳng nhớ gì hết cũng chẳng thèm muốn gì hết.

Thât xa dưới hàng xe cộ, thật sâu dưới lòng đất,

khu rừng sẽ sinh ra còn lặng lẽ đợi chờ trong một ngàn năm nữa.

 

Đột nhiên, tôi thấy dường như con đường đang chăm chú nhìn tôi.

Thị lực của nó quá kém cỏi khiến chính mặt trời

cũng chỉ còn là một cuộn chỉ màu xám trong không gian tăm tối.

Nhưng trong giây lát này tôi được rọi sáng! Con đường đã nhìn thấy tôi.

 

(Hàng rào sự thật, 1978)

 

———————

* Groenland, đảo Đan-mạch, ở về phía bắc châu Mỹ, phần lớn phủ đầy băng. Bản dịch này “phối hợp” cả hai bản Pháp và Anh! (ND.)

 

 

KỂ TỪ THÁNG BA 79

 

Mỏi mệt vì hết thảy những kẻ tới với những chữ,

Những chữ chứ không phải một ngôn ngữ

Tôi đã ra một hòn đảo tuyết phủ.

Nơi hoang dã không có chữ.

Những trang trắng mở ra khắp phía!

Tôi bắt gặp dấu vết những móng chân hoãng trên tuyết.

Ngôn ngữ chứ không phải những chữ.

 

(Phố chợ hoang dã, 1983)

 

 

ĐƯỜNG PHỐ Ở THƯỢNG-HẢI

 

I

 

Có nhiều người trong công viên đang đọc con bướm trắng.

Tôi yêu con bướm vườn cải bắp đó như thể ấy chính một góc của sự thật phất phơ bay.

 

Vào hừng đông những đám đông hối hả khởi động cái hành tinh lặng lẽ của chúng ta.

Thế rồi công viên đầy những người. Với mỗi người là tám khuôn mặt nhẵn bóng như ngọc, cho mọi tình thế, để tránh nhầm lẫn.

Lại với mỗi người là khuôn mặt vô hình nọ phản ánh «một điều gì mà ta không nói tới.»

Một điều gì ló ra trong những lúc mỏi mệt và cũng nhức nhối như một hớp rượu Rắn lục với dư vị lợn gợn dài lâu.

 

Đàn cá chép dưới ao luôn luôn chuyển động, chúng bơi trong lúc ngủ, chúng là một mẫu mực cho những kẻ tin: luôn luôn chuyển động.

 

II

 

Lúc này là đúng ngọ. Đồ giặt phất phơ trong cơn gió biển xám thật cao bên trên những người đạp xe

đang tới như những đàn cá lớn chật cứng. Hãy để ý những mê lộ ở ngang hông!

 

Vây quanh tôi là những chữ viết mà tôi không thể thông dịch. Tôi hoàn toàn, hoàn toàn mù chữ.

Nhưng tôi đã trả những gì tôi phải trả và tôi có những biên nhận cho mọi sự. Tôi đã thu thập biết bao tờ biên nhận không đọc được.

Tôi là một cội cây già với những chiếc lá héo hắt còn đeo và không thể nào rơi xuống đất.

 

Và một cơn gió mạnh từ biển khiến rì rào hết thảy những biên nhận này.

 

III

 

Vào hừng đông những đám đông lê bước khởi động cái hành tinh lặng lẽ của chúng ta.

Chúng ta hết thảy đều «lên tầu» trên đường phố, đường phố chật ních như trên «boong» một chiếc phà.

Chúng ta đi về đâu? Liệu có đủ chén uống trà không? Chúng ta có thể coi như mình may mắn vì đã «lên đường» kịp thời!

Ta ở cách sự phát sinh «chứng sợ những nơi đóng kín»* cả ngàn năm.

Đằng sau mỗi người bước đi ở đây lơ lửng một cây thập tự nó muốn đuổi kịp chúng ta, vượt qua chúng ta, nhập với chúng ta.

Một điều gì đó nó muốn lẻn tới phía sau chúng ta, vừa bịt mắt chúng ta vừa thì thào, «Đoán coi ai?»

 

Chúng ta có vẻ gần như hạnh phúc ở ngoài nắng, trong lúc chúng ta chảy máu đến chết vì những vết thương mà chúng ta không hay biết gì hết.

 

———————–

* «claustrophobia» trong bản Anh văn. (ND.)

 

 

AIR MAIL

 

Đi tìm một thùng thư

tôi mang cái phong bì qua thành phố.

Con bướm đi lạc này bay chập chững

trong khu rừng bao la của đá và bê-tông.

 

Tấm thảm bay của chiếc tem-bưu điện

mấy chữ loạng choạng ghi địa chỉ

hệt như sự thật của tôi được niêm lại

lúc này lượn là bên trên đại dương.

 

Đại tây dương ánh bạc và bò sát.

Những hàng rào mây. Con tàu của các ngư phủ

tựa cái hột ô-liu mà ta nhổ ra.

Và vết sẹo lợt lạt của lằn nước.

 

Công việc tiến hành thật chậm rãi ở dưới thế này.

Tôi thường liếc trộm về phía đồng hồ.

Trong im lặng ham hố

những bóng cây trở thành những con số tối tăm.

 

Sự thật nằm trên đất

nhưng không ai dám nắm lấy.

Sự thật ở ngoài đường phố.

Và không ai biến thành của mình.

 

(Cho những người sống và những người chết, 1989)

 

 

THÁNG TƯ VÀ IM LẶNG

 

Mùa xuân thật vắng vẻ.

Một cái hố bằng nhung tối lại

bò sát bên tôi

không tự ngắm mình.

 

Cái duy nhất lấp lánh

là những bông hoa vàng vàng này.

 

Chiếc bóng của tôi mang tôi đi

như một cây vĩ cầm

trong cái hộp đen.

 

Tất cả những gì tôi muốn nói

loáng lên ngoài tầm

như đồ bạc

nơi người cho vay nặng lãi.

 

 

Ở VƯƠNG QUỐC CỦA BẤP BÊNH

 

Viên chủ sự nghiêng mình vẽ một cây chữ thập

và đôi khuyên của y dao đông như những thanh kiếm của Damoclès.

 

Tựa như một con bướm có đốm vô hình trên mặt đất

thằng quỷ lẫn với tờ báo trải ra.

 

Một chiếc nón sắt không ai đội đã nắm quyền.

Con rùa-mẹ bỏ đi, bay đi dưới những lớp sóng.

 

(Chiếc gông-đôn tang tóc, 1996)

 

 

NHỮNG MẶT TIỀN

 

I

 

Ở mút cùng con đường tôi nhận ra quyền bính

và hắn cũng tựa như một củ hành

mà những lớp mặt chồng chất

tách dần ra…

 

II

 

Nửa đêm.. Các nhà hát vãn người.

Các từ bừng cháy trên những mặt tiền.

Sự huyền bí của chữ nghĩa vẫn không lời giải đáp

chìm sâu vào cái nhấp nháy lạnh lẽo này.

 

 

THÁNG MƯỜI MỘT

 

Khi tay đao phủ buồn chán, y trở thành nguy hiểm.

Bầu trời phừng cháy cuộn lại trên chính mình.

 

Người ta nghe những tiếng đấm đá từ xà-lim này tới xà-lim khác

và không gian tràn tới từ đất giá băng.

 

Một vài tảng đá lấp lánh như những vành trăng tròn.

 

 

TRỜI BUÔNG TUYẾT

 

Những tấm bảng chỉ dẫn

mỗi lúc một nhiều

khi ta lại gần một thành phố.

 

Ánh mắt của hàng ngàn con người

ở xứ của những chiếc bóng dài.

 

Một cây cầu tự tạo

từ từ

ngay trong không gian.

 

(Những bài thơ ngắn, 2002)

 

 

XI*

 

Điều khải thị.

Cây táo trăm năm.

Biển đã gần.

 

*

Biển là một bức tường.

Tôi nghe hải âu kêu —

chúng ra hiệu cho ta.

 

*

Gió của Trời sau lưng.

Tiếng nổ tới không ồn ào —

một giấc mơ quá dài lâu.

 

*

Im lặng màu tro.

Người khổng lồ xanh qua trước mặt tôi.

Gió biển hiu hiu lạnh.

 

*

Cơn gió mênh mang và yên hàn

của thư viện biển.

Nơi tôi có thể nghỉ yên.

 

*

Những người-chim.

Những cây táo đương hoa.

Niềm bí ẩn lớn.

 

(Niềm bí ẩn lớn, 2004)

 

—————————

* Đây là bài cuối cùng trong tập thơ “cuối cùng” của Tomas Tranströmer. (ND.)

 

 

GỬI NHỮNG NGƯỜI BẠN Ở ĐẰNG SAU MỘT BIÊN GIỚI

 

I

 

Tôi đã viết cho các bạn thật ít ỏi. Nhưng những gì tôi không thể viết

đã phồng lên và phồng lên như một khinh khí cầu kiểu xưa

và cuối cùng trôi đi qua bầu trời đêm.

 

II

 

Lá thư lúc này ở nơi người kiểm duyệt. Y bật đèn.

Trong ánh sáng chói chang những chữ của tôi bay lên như những con khỉ trên tấm song sắt,

rung lách cách, dừng lại, và nhe răng.

 

III

 

Hãy đọc giữa những hàng chữ. Chúng ta sẽ gặp nhau trong 200 năm nữa

khi những máy vi âm trên vách tường khách sạn bị quên đi

và rốt cuộc có thể ngủ yên, trở thành những giống tôm cua hóa thạch thời nguyên thủy.

 

 

ĐÁ

 

Những tảng đá chúng ta đã ném tôi nghe rơi rơi,

trong như pha lê qua năm tháng. Dưới lòng thung

bay đi những việc làm hỗn độn của khoảnh khắc

kêu ré từ

đỉnh cây tới đỉnh cây. Trở thành câm nín

trong bầu khí loãng hơn của hiện tại, chúng lướt nhanh

như chim én qua hết ngọn núi này

tới ngọn núi khác, cho đến khi

tới mãi những bình nguyên xa xôi nhất

ở mép lề cuộc sống. Rơi rơi

mọi hành động của chúng ta

trong như pha lê

không vào một đáy sâu nào hết

ngoại trừ ở bên trong chính chúng ta.

 

 

TỪ THÁNG BA 79

 

Mỏi mệt vì hết thảy những kẻ tới với những chữ,

Những chữ chứ không phải một ngôn ngữ

Tôi đã ra một hòn đảo tuyết phủ.

Nơi hoang dã không có chữ.

Những trang trắng mở ra khắp phía !

Tôi bắt gặp dấu vết những móng chân hoãng trên tuyết.

Ngôn ngữ chứ không phải những chữ.

 

 

 

Nguồn: tienve.org