Văn chương Hermann Broch, trước tiên là sự sâu sắc của khắc kỷ.

Hermann Broch thường được nhắc đến (đặt cạnh – thành một cặp) với một nhà văn Wien khác, Robert Musil. Giống Ernesto Sabato, không có gì định trước rằng Broch sẽ trở thành nhà văn. Sabato thì chiến đấu suốt nhiều năm giữa thiên hướng khoa học (đó là một nhà khoa học xuất sắc, đầy hứa hẹn của nền khoa học Argentina) và thiên hướng văn chương, còn Broch trong vòng khoảng hai mươi năm trông coi doanh nghiệp dệt của gia đình. Ngoài bốn mươi tuổi, đột nhiên Broch đi học (toán, triết, etc.) và năm bốn mươi lăm tuổi thì in tác phẩm đầu tiên, một cuốn tiểu thuyết lớn (tuy nói cho đúng, từ trẻ Broch đã đăng một số thứ trên các tạp chí: Joseph Roth không ít lần chỉ trích khuynh hướng thương mại quá mạnh của rất nhiều con người thời ấy; còn Broch thì phải thực sự chiến đấu trong địa hạt đó – cho đến cuối cùng, Broch cũng không thực sự coi trọng văn chương, hay ít nhất, luôn luôn có ở Broch một nỗi nghi ngại, một nỗi nghi ngại đặc biệt hữu lý, đối với tiểu thuyết, cũng như nghệ thuật nói chung). Ngày nay, người ta quá mức giản lược trong cái nhìn vào Broch (đặc biệt là một nhóm trong số nouveau riche Việt Nam), buộc chết Broch vào khái niệm kitsch. Broch rộng hơn thế nhiều, Broch là cả một thế giới.
Thế giới của Broch đặc biệt khắc kỷ. Nhan đề của hai cuốn sách trong bức ảnh trên đây đã cho thấy ngay một phần: Die Schuldlosen và Der Versucher (rất có thể lẽ ra Der Versucher phải là Der Wanderer thì mới đúng ý Broch). Cả hai cuốn sách đều có sự ra đời quái dị, thuộc về cuối đời Broch (năm 1938, khi Anschluss xảy ra, Broch bị chính quyền Áo bắt, nhưng một số người bạn của Broch, nhất là James Joyce – Broch viết về Joyce một tiểu luận then chốt, một tiểu luận rất đáng nhớ nữa của Broch là về Hugo von Hofmannsthal – đã nhanh chóng cứu được Broch, đưa Broch sang Mỹ và Broch sẽ ở Mỹ cho đến khi qua đời, năm 1951) – tức là quãng thời gian sự nghi ngại đối với văn chương ở Broch mỗi lúc một thêm lớn. Die Schuldlosen, cuốn sách về “những kẻ vô can” là kết quả của một câu chuyện kỳ quái: một nhà xuất bản muốn in lại mấy truyện trước đó của Broch, nhưng Broch viết lại hết, và viết thêm, để thành Die Schuldlosen, còn Der Versucher (câu chuyện về “kẻ cám dỗ” Marius Ratti) là tác phẩm posthumous: khi chết, Broch để lại ba version cuốn tiểu thuyết rất dày ấy. Nhà xuất bản quyết định nhờ một người san định bản thảo – kết quả là có sự chắp nối các version (với thông báo có thêm không quá hai mươi dòng để nối các phần vào với nhau).
Cái nhìn của Broch không bao giờ chần chừ chộp ngay lấy điều cốt yếu. Con người – Broch viết trong Der Versucher – chỉ có chỗ cho mình ở trên một dải nhỏ vô cùng tận sát kề với bóng tối.
Cũng trong Der Versucher (cũng như Die Schuldlosen: hai cuốn sách đi vào trách nhiệm và sự cám dỗ, những chủ đề lớn trong thế giới quan của Broch (“thế giới quan” nằm trong tiêu đề một bài thuyết trình rất quan trọng của Broch về tiểu thuyết) – điều này ngay lập tức khiến Broch ở tương đối xa so với Expressionismus là khuynh hướng chi phối rất mạnh tinh thần của văn chương nghệ thuật đương thời, nhất là phân mảng Đức; hai tác phẩm văn chương ấy của Broch, do sự ra đời của chúng, thuộc vào dạng tác phẩm văn chương mà người ta hay gọi là “bancal”), bà già Gisson – linh hồn của vùng núi non Kupporn có vùng thượng và vùng hạ – phát biểu: “tiên tri tức là nhớ lại”; đối với Broch của giai đoạn từ bỏ cuộc sống thành phố, núi là đàn ông, thung lũng là phụ nữ; núi, con người và ngôn ngữ được sinh ra cùng một lúc.
Cùng Broch, văn chương (tiểu thuyết) bước vào sự lựa chọn nằm ở siêu hình học của bản thân nó, trong một vết nứt thuộc mức onto- của nó: cần phải lựa chọn giữa confession (đó là tinh thần của tiểu thuyết thế kỷ 18, của Rousseau, sang đến tận Alfred de Musset và cả sau đó nữa, chẳng hạn Tolstoi; với nguyên tắc từ xa là Saint-Augustin) và connaissance. Trong “thú tội”, một cái gì đó sâu kín (“cái tôi”, nếu muốn nói ngắn gọn) bị lột trần: tất nhiên ta nhớ đến cả Baudelaire, Mon coeur mis à nu. Nhưng cái đó đâu còn có thể nắm bắt được nữa, trong một thời đại mà Broch miêu tả là trống rỗng về phong cách (cf. Hofmannsthal và thời đại của mình). Chính xác ở đây, ta thấy rõ Kundera là truyền nhân của Hermann Broch đến mức độ nào. Cũng chính Kundera đóng góp phần không nhỏ để mối quan tâm chung được tập trung thêm một lần nữa vào Broch (rọi ánh sáng vào) – cùng, tất nhiên, một “thế giới quan” mà phải mất rất lâu tiểu thuyết mới thực sự lĩnh hội được (và đi đến đỉnh cao – theo tôi – ở Sebald).
Quay trở lại với tiểu luận của Broch về Joyce (tôi sẽ tạo cảm giác quá quan tâm đến một Broch tiểu luận gia chứ không phải Broch tiểu thuyết gia, nhưng tất nhiên không phải thế: trong Die Schuldlosen có một trong những câu chuyện lớn nhất của văn chương cả một thời đại rộng lớn: câu chuyện của bà hầu Zerline): đó là khi Broch nhấn mạnh vào hình ảnh nhà văn ở tuổi năm mươi. Giờ đây đọc lại tiểu luận ấy, một điều nghịch lý bỗng hiện lên rất rõ: chính Broch mới là nhà văn lớn chứ đâu phải Joyce. Cùng cảm giác ấy hiện lên, với tôi, khi đọc Bùi Giáng ca ngợi Camus: chính Bùi Giáng mới lớn, chứ đâu phải Camus. Nhưng, đó, chính đó, là ý nghĩa: đó là sự hào phóng. Broch đi đến hào phóng bằng con đường của khắc kỷ. Nhưng, hào phóng có là gì khác đâu, ngoài một tên gọi khác của cứu rỗi.
Và chính truyền nhân của Broch – Kundera – đã vượt qua (đầy kín đáo) Joyce. Ulysses của Joyce, mới nhìn ta thấy thật dị hợm, nhưng rồi ta thấy hình như không phải vậy, rằng đằng sau cái đống rậm rì kia có (rất nhiều) điều khác; ta cứ tin như vậy mãi, cho đến lúc lại nhận ra thêm một lần nữa, đó đúng là sự dị hợm (sự dị hợm ấy có lẽ tập trung vào món cật rán để ăn sáng của Bloom – dẫu thế nào, Molly của Céline chứ không phải Molly của Joyce – hoặc cũng có thể, Molloy chứ không phải Molly). Ulysse của Kundera vượt qua rất xa, và Kundera thực hiện điều đó bằng một cách thức không thể tưởng tượng nổi: bằng con đường của sự trong suốt. Limpidité. Cuốn tiểu thuyết thứ ba bằng tiếng Pháp của Kundera (Vô tri) làm điều đó. Ấy là sau hai lần không mấy đúng hướng (à, chính nhờ tôi nên bản tiếng Việt La Lenteur đã thoát được khỏi cái tên cũ ngớ ngẩn, “Chậm rãi”, để có được nhan đề đúng, là Chậm): La Lenteur cho thấy rằng Kundera rất vĩ đại trong nhìn nhận văn chương thế kỷ 17 và kể cả Rabelais nhưng lại không hoàn toàn vậy với thế kỷ 18: Vivant Denon không nói cho Kundera thực sự nhiều điều; vả lại, Kundera cũng không chuẩn xác khi nhìn nhận Laclos.
Thành phố Wien nhận được một miêu tả đặc biệt sâu sắc từ Broch. Trong đó, Burgtheater là một yếu tố nổi bật (Hermann Broch rất hay nhấn mạnh một điều: Richard Wagner luôn luôn tìm cách đẩy bật các vương cung thánh đường khỏi vị trí trung tâm của thành phố, để thay vào đó nhà hát, nhất là opera). Trong trí nhớ của tôi, Burgtheater của Wien có phố chạy qua ngay sát là phố Mahler. Cái tên Mahler không khỏi gợi đến “malheur”. Còn Wien đối với Joseph Roth trước hết là Leopoldstadt: trong tiểu luận Những người Do Thái lang thang, Roth nói rằng Wien là địa ngục với người Do Thái, không người Do Thái nào muốn đến Wien. Hai con người sáng suốt nhất của cả một thời ấy, Broch và Roth, đều nhìn thấy vấn đề: đối với Broch, chủ nghĩa phát xít ra đời từ giới petit-bourgeois, còn Roth thấy rằng từ Martin Luther đến Adolf H. là một con đường rất thẳng (và không dài).
Chương hay nhất trong cuốn sách Danube của Claudio Magris là chương về thành phố Wien, thành phố Wien của Lukács, của Hofmannsthal, Broch, Musil, Karl Kraus, và của Peter Altenberg – với sự hiện diện kỳ quái tại Cafe Central (trong ký ức của riêng tôi, về thành phố, gần như không có gì liên quan đến Cafe Central, tuyệt đối không có thì đúng hơn – hồi ở Warszawa, tôi đã định đi tìm quán cà phê Ziemiańska – phế tích của nó thì đúng hơn – tức là nơi Gombrowicz hồi trẻ hay ngồi, nhưng rồi tôi nhanh chóng từ bỏ ý định, tôi thấy nó vô nghĩa; tới một thời điểm, tôi bỗng nhận ra nơi tôi ở trong vòng chừng một tuần, một khu rất Warszawa, từng xuất hiện trong một cuốn tiểu thuyết của Isaac Bashevis Singer: hồi Singer còn ở đó, nó là một ngoại ô xa xôi; đại khái, ấy là một khu không khác Mỹ Đình tại Hà Nội). Tôi cũng nhớ mình từng nằm trên bãi cỏ gần sông Danube (Donau) rồi ngủ thiếp đi một hồi lâu, lúc tỉnh dậy mất vài giây mới hiểu ra đang ở đâu. Trong đoạn về Wien của cùng cuốn sách, Magris miêu tả căn hộ của Sigmund Freud, đã trở thành viện bảo tàng từ lâu.
Joyce là một trong những hiểu nhầm lớn của văn chương thế kỷ 20. Một tương tự: Nabokov. Để đủ một bộ ba, không ai xứng đáng với vị trí còn khuyết hơn so với Martin Heidegger. Tôi không nghĩ (giống không ít người, từ vài năm trở lại đây, sau khi “sổ đen” – nghĩa là sổ có bìa màu đen – của Martin H. được công bố) đó là một nhân vật tầm thường: Heidegger không hề tầm thường, dẫu đó là người có biệt tài đào tạo ra nhiều môn đệ tầm thường: Hannah Arendt hay Hans Jonas (chỉ nên tính những môn đệ thực sự gần gũi: lẽ ra Jonas và Arendt đã yêu nhau, nếu ông thầy Martin H. không xen vào – điều đó, Jonas kể trong hồi ký của mình). Không tầm thường, bởi vì xét cho cùng, đó là một cao thủ: Đông Phương Bất Bại cũng là một cao thủ; nhưng xét cho cùng hơn nữa (vả lại, ở Martin H., hoàn toàn có thể làm vậy: đó là người từng nghĩ có thể đi sâu hơn cả siêu hình học, cũng như từng, trong suốt thập niên 30 của thế kỷ 20, tìm mọi cách để vượt qua Nietzsche: xem thêm ởkia – rất nên để ý comment bên dưới, của một nhân vật rất tích cực triết học, hỏi về chính sự “vượt qua”), cố nhìn quá thì cũng đâu có hay gì – cũng như mắt lác.
Magris cũng phê phán một số người (nhất là Kundera) vì có cái nhìn “Mitteleuropa” quá mức lý tưởng.
nguồn: nhilinhblog.blogspot.com
tản mạn
Trong hành trang của Giáng trong chuyến đi này, đến Sapa Cõi Tịnh, Giáng mang theo quyển truyện “Virgile, nhà thơ trước giờ lâm chung” ( “La mort de Virgile”, traduction française, de Hermann Broch). Hermann Broch (1886-1951), người Áo viết quyển truyện này vào những năm 1938-1945 trong tiếng Đức, cầu kỳ khó hiểu nên ít người nói tới, nhưng với đề tài lôi cuốn. Quyển truyện hơn 500 trang cốt là viết ra những cảm nghĩ “nội tâm độc thoại của Virgile trong 18 giờ nằm trên giường bệnh trước khi lâm chung”. Quyển truyện chia ra làm bốn phần:
1) Hồi hương (L’arrivée).
Virgile, đại thi hào La Mã ( latin, romain), lâm bệnh trong khi tuần du Trung Đông, miền của Đế Quốc La Mã, dưới thời hưng thịnh hoàng đế Auguste, César của thành Rome. Có cậu bé Hy lạp tên Lysanias theo hầu đưa về Brindisi, tỉnh nhà ở Ý (Italia). Đêm nằm bệnh ở nhà trọ, nhìn Lysanias nhớ lại tuổi thơ, tình cũ, cuộc đời rong ruổi đi tìm thi ca.
2) Lạc thời (La descente).
Đi tìm thi ca, đi tìm “Mỹ Tính” ( Cái đẹp,”mỹ hiện”) trong thế gian ô trọc này! Virgile nghĩ lại tất cả sự nghiệp sáng tác thi ca của mình. Đã làm được gì? Eneide, hùng sử ca Rome, kinh thành lập nên đế quốc vương La mã, có nói ra lên được đâu cái bất cẩn nằm trong Đế quốc, chiều hoàng đế Auguste, lập nên với khổ đau của người nô lệ, lập nên với sức mạnh bạo quyền, một nền văn hóa tiền phong, sa đọa dần trong hưởng thụ xa hoa… Virgile nghĩ đốt cháy hết sự nghiệp văn thơ của mình, đặc biệt Eneide, như một sự thất bại, mù quáng che đậy của nhà thơ.
3) Chung cục (L’attente).
Eneide nữa! Một không tưởng đòi đạt tới sự thật, tường tận nhân sinh tính, chỉ có thể là một ảo ảnh. Đích thân, hoàng đế Auguste đến thăm Virgile bên giường bệnh. Nhưng không như Hoàng đế mà như người bạn Octave thời xưa của Virgile, cầu xin Virgile giữ lại hùng sử ca Eneide, cho vinh quang của thành Rome, cho tên tuổi của Virgile ở lại trong sử sách. Virgile sau cùng vì tình bạn đành phải giao Eneide cho hoàng đế Auguste, dù chính nhà thơ tự nghĩ mình không xứng đáng gì để lưu danh trong sử sách.
4) Cái vòng đồng nhất (l’unité)
Virgile sau cùng tự thấy đã tới rồi cái điểm đồng nhất sống và chết, tình yêu và phụ bạc, hư vô và vũ trụ…Cái vòng tuyệt đối (le cercle de tout) đã khép lại mênh mông nằm trong nhỏ bé, thánh thiện trong đọa đầy thế tục. Tất cả như một điệu nhạc, một lời tình xa xôi ru người trở về cát bụi.
Một quyển truyện hơn 500 trang như thế. Ngoài cuộc đối thoại giữa hoàng đế Auguste và Virgile, hầu như không có một chuyện gì xảy ra, tất cả là “nội tâm độc thoại” của nhà thơ. Một bản trường thi ca độc thoại! Một bài thơ phát động tự tiềm thức, bất tất, không chủ định. Những lời tự thì thầm của một người nằm trên giường bệnh, giữa sống và chết, khi tỉnh khi mê, hồi ức và nuối tiếc.
Tất nhiên, đọc giả khó để tâm đọc hết từng trang. Chúng ta nên đọc như sự thật là vậy đấy, một bài thơ bất tận, lâu lâu hãy chọn một hai trang và thông diễn giải tâm hồn của nhà thơ Virgile trong cái vĩnh hằng thế tục phận làm người. Giáng đã tự chọn dịch ra việt ngữ một hai trang thơ ở từng mỗi đoạn sách trên, như là một cách điển hình tiếp cận tài nghệ của Hemann Broch trong sự tạo dựng “nội tâm độc thoại” của một tâm hồn, những cảm nghĩ tự tận cùng trái tim nhưng lý tính hồn nhiên dẫn dắt phản ảnh thế giới hiện sinh bản thể.
Hồi hương (l’arrivée)
Mộng! Và hãy mộng
ta còn làm thơ thì ta không trở về và còn sống trong vương quốc này của ngày đêm, ta còn có quyền mơ trong hy vọng, hội tụ trong một nỗi nhớ nhung và hy vọng tình yêu, như thế bạn nhỏ của ta ơi! hãy ở lại với ta trong nhớ nhung và hy vọng.
Tên con (Lysanias) là gì, ta không muốn biết vì chỉ là cái bóng của con thôi, và ta cũng không muốn gọi con để ra đi hay để trở về, dù có lẽ con không có tên hay con cũng không thể gọi, dù sao đi nữa hãy ở lại với ta cho tình yêu ở lại mang hạnh phúc tràn đầy! Hãy ở lại với ta trong trong bóng tối này! Hãy ở bên ta bến sông dài mà ta chiêm ngưỡng, xa ngọn nguồn, không sợ chập chùng lớp sóng, không chìm đắm trong sự cô đơn và ánh sáng độc tôn của thánh thần!
Ôi! hãy ở bên ta, che chở và cùng ta cứu rỗi, ta muốn ở mãi bên người như bên tình yêu toàn màu ánh sáng.
Thi nhân ngồi đây, thằng bé tựa lưng vào đùi, mờ ảo trong bóng tối, không nhìn rõ mặt nhưng mớ tóc nâu lấp lánh dưới ánh nến. Người nhớ lại đêm hãi hùng, của hạnh phúc và mất hạnh phúc, đêm từ giã Plotia. Bao nhiêu năm ngày xưa nhỉ? Ta, người tình luôn luôn say mê, nhưng cũng là kẻ chìm đắm trong sáng tác – cái mâu thuẫn mà ta phải ôm mang. Cái đêm, ta đến bên nàng như một kẻ đắm đuối, để đọc những câu thơ cho nàng nghe, người đẹp u huyền, người đẹp nằm trong giấc mơ của mùa đông, của những ngày giá lạnh ước mong và chờ đợi. Nàng thu gọn dưới chân ta, vai nàng ghì bên đầu gối và ta đã đọc bài mục ca....mà ta đã viết lên trong nỗi nhớ nhung mênh mông vì nàng…..vì nàng ta đã viết nhưng cũng với sự nguyện cầu thoát ly. Ta đã đọc những câu thơ tràn đầy khắc khoải mang mang hy vọng nhưng cũng là những lời cáo biệt.
Lạc thời (La descente)
Màn đêm quấn tròn thi nhân, nhịp nhàng mỹ hiện như giai điệu, lung linh bóng tối vũ trụ đêm cùng trải dàì giữa những vì sao, vượt qua tất cả thời khắc nhưng vẫn tồn tại trong thời gian, không ra ngoài trái đất, từ giới tuyến này tới giới tuyến kia, xa xôi hay gần gũi, nội tại hay ngoại tại, hiện thực tại mỗi điểm
màn đêm mênh mông trên thi nhân và trong cả tâm hồn, như một con sóng tràn đầy bắt nguồn từ quân bằng trái đất, mỹ hiện tượng trưng những biểu tượng hình, lưu đầy đến xứ lạ hay chính tại bản ngã, một cảm thức bao nhiêu lần quen biết nhưng giờ đây dưới ánh sáng mới, để thi nhân thấy lại chính mình, rõ từng nét trên chiếc bóng, xa vời nhưng sáng tạo thể hiện bản ngã trong vũ trụ, vũ trụ trong bản ngã, tỏa sáng đêm cùng, tỏa sáng thế giới, mỹ hiện lan tràn bất tận, qua tất cả những thời đại, thời quán vĩnh hằng đánh dấu cả thời gian mênh mông, biểu tượng hình cho thế giới quan nằm trong thời gian và không gian, ôm mang nỗi buồn phù du, mỹ hiện nhân sinh vũ trụ.
chính vậy trong nỗi buồn tang tóc
chính vậy con người cảm thức mỹ hiện
hiện thành trong bản ngã
biểu tượng hình và quân bằng vũ trụ
mênh mông và huyền diệu giữa cực điểm
bản ngã cảm thức mỹ hiện và thế giới hiện thành với mỹ hiện
những cực điểm với từng không gian và giới hạn bản thể
nhưng quân bằng trong một vũ trụ
trong một cõi nhân sinh
trong một cõi đi về
…………
Mỹ hiện tại tận cùng thi nhân tính
giới tuyến ngoại tại và nội tại
tại cõi trời xa thẳm
tại một điểm giữa vô biên và hữu hạn
tại vùng đất hoang sâu của trái đất này
trong thời gian của sự sống
trong sinh thời bản thể
quãng thời gian tồn lưu bản sinh trong không gian
mà không tan biến
mỹ hiện ở ngoại tại thời gian
không loại trừ thời gian
mà biểu tượng hình loại trừ cái chết
nhưng không loại trừ tất cả
dù trong cõi nhân sinh eo hẹp
hay chính là trong cõi phi nhân tính
mỹ hiện như là một biến cố con người
một mỹ thức nguyên thủy
một thế gới hữu hạn trong vô cùng
một vô cùng huyền ảo trong cõi nhân sinh
một trò chơi của con người
muốn đoạt vĩnh hằng trong cõi đi về
một trò chơi biểu tượng hình bên bờ xa trái đất
mỹ hiện một trò chơi bản thể
mà con người chơi biểu tượng hình
như một cách duy nhất
tượng trưng thoát ly
sự cô đơn khắc khoải phận làm người
Chung cục (l’attente)
Dẫu dù ta có biết lột trần nhân loại để đi tới cõi thâm sâu, trơ trụi cuối cùng, gỡ bỏ thịt da trên bộ xương, lọc xương hết tủy, phá vỡ đầu óc tư duy để chỉ còn trơ cái thằng tôi đơn độc, xám hối trước thánh thần, cái thằng tôi u ám; dẫu dù lý tính ta sáng suốt để có thể thi hành việc đó và ta sẽ đi từng bước, ghi chép và trình diễn, ta cũng không thể đi tới đâu, ta chỉ biết lè tè trong thế tục, bám chặt trái đất này, chỉ biết thế nào là sống và không bao giờ biết tới lẽ chết; moi móc từng mảnh đêm cùng hỗn mang, đan ghép dây truyền của sự thật, cái dây truyền bất tận chư chính là sự thật, chính là cuộc đời ngang trái, mâu thuẫn và phi lý cầm tù mà vẫn ra đi tìm sự thật, cho đến khi như cuộc đời tỉnh ngộ nhận ra sự chết, và chìm trong tang tóc trong ánh sáng vô cùng của sự trở về, với lý nghĩa sâu xa đó của kiếp con người, tới điểm chung cục hội tụ sống và chết, và sự thật chỉ là sự thật của trần gian, kết tụ ở một điểm duy nhất đó, giữa sống và chết, và tất cả là hoài niệm trong vĩnh hằng hồi ức.
Cái vòng đồng nhất
Vang vang tiếng thì thầm? Plotius, người bạn đồng hành của ta, kiêu hùng và thân thiết? Ô Plotius, hãy tiếp tục, hãy tiếp tục thì thầm trầm lặng, như từ cõi thâm sâu bất tận bên trong hay bên ngoài, như bây giờ không còn phải lao công, như bây giờ mọi sự đã hoàn tất, không còn gì phải thêm bớt, không còn gì cần thiết nữa, hãy tiếp tục không bao giờ ngừng; tiếng thì thầm thật đã vang vọng từ lâu rồi, như luôn luôn và mãi mãi, tới trong tiếng rì rào không ngừng của sóng nước, ngọn nước cuốn lăn tăn, tiếng thì thầm cũng từng đợt theo nhau, lăn tăn là những vòng tròn tiếp nối trong một miền vô tận; tiếng thì thầm không lắng tai cũng nghe, tiếng thì thầm không được níu giữ, nó lan đi về chốn vô cùng có tiếng reo của suối nước, tiếng nước chảy ngầm, hòa tan trong âm thanh ấy trở nên sinh lực không màu không sắc đưa ta đến chốn an bình, chính nó là sự an bình, như tiếng sóng đập mạn thuyền tung tăng bọt trắng……. Bờ bến xa dần, tất cả như là một lời cáo biệt, cáo biệt những người thân, những ngôi nhà người ta vẫn sống ở miền xa đó, cáo biệt thế gian đang biến dạng trong cái vĩnh hằng bản thể, cáo biệt sự thay hình đổi dạng của những vật thân quen, cáo biệt những đám mây, cáo biệt cái đền nằm dưới mây mù ảm đạm.
Mạn đàm
“Độc thoại” kịch tính trình diễn cho chính mình những cảm nghĩ chợt đến chợt đi bằng lời nói.Trong nghệ thuật văn chương, tiểu thuyết hay kịch bản, độc thoại là một thể cách nghệ thuật tạo dựng nhân vật qua lời nói bản thân, hiện rõ với tiềm thức, với ước ao, tình yêu, dục vọng….
Mà thật, người họa sĩ trước tiên“vẽ trong đầu” rồi đứng trước giá vẽ, khung bố, cây cọ, sơn dầu và màu sắc, cũng là “độc thoại” không bằng lời nói mà bằng cây cọ đưa ra những vệt màu, triển khai trình diễn từng bước cho chính mình cái gì mà nghệ sĩ đã cảm thấy trong nội tâm. Nhạc sĩ sáng tác cũng không làm gì hơn, “độc thoại” với mình không bằng lời nói mà với âm thanh cây đàn. Độc thoại có thể hoàn toàn “nội tâm”, đặc biệt như là nhạc sĩ Beethoven bị điếc rồi mà vẫn sáng tác ra những khúc nhạc vượt thời gian, vô thanh vang lên cho mình, lý tính siêu thoát hồi ức nội tâm.
Từ những cảm thức đột phá trong tâm trí, triển khai “độc thoại” thật là một suy luận trải dài nghệ thuật với lý tính, bản năng nghệ thuật, triết lý và còn khi cả khoa học của nhân vật. Nhưng đối người bệnh, chỉ vài giờ trước khi lâm chung, những cảm thức chỉ có thể chợt đến rồi chợt đi, và ngay cả sự triển khai “độc thoại” chỉ có thể là bất tất, mông lung vụng về mê sảng. Nhưng tuy nhiên, với đại thi hào Virgile, dù thế nào đi nữa cái bản năng sáng tác thi ca, cái chiều sâu lý luận văn học phải lưu tồn trong tiềm thức. Hermann Broch nên đã táo bạo thử thách “ nội tâm độc thoại” (le monologue intérieur), để diễn tả cho cùng tư duy của một nhân vật như Virgile trong những giờ lâm chung. Gần 500 trang, “nội tâm độc thoại” tuy bất tất hay mê sảng (người yêu nhớ lại hiện ra như một linh hồn vẫy tay dẫn dắt nhà thơ về chốn bên kia!) vẫn đột phá để có thi ca, sâu xa suy luận về “cái đẹp”, cái “lẽ nhân sinh, lịch sử, hay xã hội”. Hermann Broch tuy nhiên còn theo “tự nhiên chủ nghia” (le naturalisme), “nội tâm độc thoại” của nhà thơ Virgile là độc thoại của người bệnh, trong cái nghĩa là rất nhiều khi không có thể suy cho ra một chủ đề tổng quát, một lý luận cảm nghĩ thông thường cơ bản nào.
Hermann Broch thật quá táo bạo thử thách viết ra như thế cả một thiên tiểu thuyết hầu như không chuyện, chỉ với “nội tâm đọc thoại” của nhà thơ nửa tỉnh nửa hôn mê. Nhưng tài nghệ chuyên nghiệp văn chương làm sao lôi cuốn được độc giả? Sự thử thách táo bạo đó, theo nhà phê bình Maurice Blanchot, có tính cách tự truyện, thành công hay không cũng là một thử nghiệm cho văn nghệ sĩ hôm nay và ngày mai suy tư về “nội tâm độc thoại”, triển khai theo Hermann Broch vừa “phân tâm học” vừa “tự nhiên chủ nghĩa”, có giá trị sao về nghệ thuật trong văn thơ, tiểu thuyết hay kịch bản.
Tháng 5 năm 2015
Ngô Văn Tao