Haruki Murakami-Kafka bên bờ biển (2)


Chương 6

“Xin chào,” lão già nói lớn.

Con mèo đen già, to gộc, hơi nghếch đầu lên và khẽ chào lại bằng một giọng mệt mỏi.

“Chúng ta đang hưởng một đợt thời tiết rất đẹp.”

“Ừm,” mèo nói.

“Trời không một vẩn mây.”

“… tạm thời thôi.”

“Vậy thời tiết sẽ xấu đi ư?”

“Có vẻ như chiều tối nay trời sẽ đầy mây.” Mèo đen duỗi một chân ra rồi nheo mắt nhìn lão già hồi lâu.

Cười toét miệng, lão nhìn đối lại. Mèo ta do dự một lúc, rồi quyết định nói toẹt ra: “Hừm… vậy ra bác biết tiếng bọn tôi.”

“Đúng vậy,” lão già bẽn lẽn nói. Để tỏ lòng kính trọng, lão ngả chiếc mũ bông đi núi mòn xơ. “Không phải gặp chú mèo nào lão cũng nói được, mà chỉ nhằm khi thuận lợi thôi. Như lúc này đây.”

“Hay đấy,” mèo nói gọn lỏn.

“Lão ngồi xuống bên cậu một lát được không? Nakata này đi bộ hơi mệt rồi.”

Mèo đen uể oải đứng dậy, ria mép rung rung, và ngáp một cái đến sái quai hàm. “được thôi. Hay đúng hơn, tôi đâu có quyền. Bác thích ngồi đâu thì ngồi. Chẳng ai phiền đâu.”

“Rất cám ơn,” lão già nói và ngồi xuống cạnh mèo đen. “Chà, lão đã đi bộ suốt từ sáu giờ sáng hôm nay.”

“Ừm… vậy theo tôi hiểu, bác là Nakata?”Đúng thế. Tên lão là Nakata. Còn cậu?”

“Tôi quên tên mình rồi,” mèo nói. “Tôi đã từng có một cái tên, tôi biết thế, nhưng đến một lúc nào đó tôi không cần đến nó nữa. Vậy là nó tuột béng ra khỏi đầu.”

“Tôi biết. Thật dễ quên những thứ mà ta không cần nữa. Nakata cũng hệt như thế đó,” lão già vừa nói vừa gãi đầu. “Vậy, thưa Cậu Mèo, cậu nói là cậu không thuộc một nhà chủ nào?”

“Lâu lắm rồi, tôi đã từng có chủ. Nhưng bây giờ thì thôi rồi. một vài gia đình ở quanh đây thi thoảng cho tôi cái ăn, nhưng không ai là chủ sở hữu của tôi cả.”

Nakata gật đầu, im lặng một lát rồi nói: “Vậy cậu có phiền không nếu tôi gọi cậu là Otsuka?”

“Otsuka?” mèo ngạc nhiên nhìn lão già. “Bác nói chuyện gì lạ vậy? Tại sao tôi lại phải là Otsuka?”

“Chẳng vì lý do đặc biệt nào cả. Cái tên chợt đến trong đầu lão. Nakata này cứ chọn đại thế thôi. Có một cái tên để gọi, mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn bao nhiêu. Như thế, một kẻ kém thông minh như lão mới có thể sắp xếp mọi sự đâu ra đấy. Chẳng hạn, lão có thể nói: Vào ngày ấy tháng ấy, mình đã nói chuyện với mèo đen Otsuka ở một bãi trống trong Khu 2 Quận X. Nó giúp cho lão nhớ.”

“Hay đấy,” mèo nói. “Tuy nhiên, tôi chưa hiểu rõ hoàn toàn. Bọn mèo chúng tôi không có tên vẫn ổn. bọn tôi dựa vào mùi, hình khối, những thứ đại loại như thế. Chừng nào bọn tôi biết những cái í, thì chẳng lo gì.”

“Nakata hiểu hoàn toàn. Nhưng, Otsuka, cậu biết đấy, con người lại khác. Chúng tôi cần có ngày tháng và tên để nhớ mọi thứ chuyện.”

Mèo ta khịt mũi một cái. “Tôi nghe nó phiền toáiế nào í.”

“Hoàn toàn đúng. Chúng tôi có quá nhiều thứ phải nhớ, đó quả là phiền toái. Nakata này phải nhớ tên ông Tỉnh trưởng, số các chuyến xe buýt, vân vân. Dù sao cậu cũng không phản đối tôi gọi cậu là Otsuka chứ? Có thể nó hơi chướng tai cậu chăng?”

“Chà, đã nhắc đến chuyện í, thì phải nói là nó không êm tai… nhưng cũng không đến nỗi chướng tai lắm, bác hiểu chứ. Cho nên tôi chẳng thực sự phiền lòng. Bác muốn gọi tôi là Otsuka cũng được. Tuy nhiên, tôi phải nói rằng nghe nó không đúng với tôi.”

“Nakata này rất hài lòng nghe cậu nói vậy. Rất cám ơn, Cậu Otsuka.”

“Tôi phải nói rằng với tư cách một con người, bác có cách nói năng hơi khác thường đấy,” Otsuka bình luận.

“Phải, ai cũng bảo lão thế. Nhưng Nakata chỉ có thể nói năng cách ấy thôi. Lão cố nói năng bình thường, nhưng nó cứ ra như thế. Nakata này chẳng sáng dạ gì, cậu thấy đấy. không phải bao giờ lão cũng thế, song dạo bé lão bị tai nạn, thế là từ đấy đâm ra đần độn. Nakata này không biết viết, cũng chẳng đọc được sách báo chi cả.”

“Không phải khoe mẽ, chứ tôi đây cũng chẳng biết viết,” mèo vừa nói vừa liếm bàn chân phải. “Tuy nhiên, tôi có thể nói trí khôn tôi là trung bình, cho nên tôi chẳng bao giờ thấy đó là bất tiện.”

“Trong thế giới loài mèo, đó là lẽ thường,” Nakata nói. “Nhưng trong thế giới loài người, nếu anh không biết đọc biết viết, anh sẽ bị coi là đần độn. Cha của Nakata này – cụ mất lâu lắm rồi – là một giáo sư nổi tiếng ở một trường đại học. Cụ chuyên về một môn gọi là lía luận mẽo thuật. Lão có hai cậu em trai và cả hai đều rất thông minh sáng láng. Một cậu làm ở một công ty, giữ chức chưởng buồng. Cậu kia làm ở một nơi gọi là Bộ xương mại và công nghiệp. Cả hai sống trong những nhà to tướng và ăn lươn hàng ngày. Chỉ riêng Nakata này là không sáng dạ thôi.”

“Nhưng bác lại có khả năng nói được với mèo.”

“Cái đó thì đúng,” Nakata nói.

“Vậy xét cho cùng, bác đâu đến nỗi đần độn.”

“Ừ. Mà không… lão muốn nói thế này, Nakata này không thực sự biết thế, nhưng từ dạo bé, người ta cứ không ngừng bảo: mày là thằng đần, mày là thằng đần, nên lão đoán mình đúng là vậy. Lão không đọc được tên các ga, thành thử không mua được vé mà đi tàu. Tuy nhiên, nếu lão chìa thẻ khiết tật ra thì họ để cho lão đáp xe buýt thành phố.”

“Hay đấy…” Otsuka nói mà chẳng tỏ ra quan tâm mấy.

“Nếu không biết đọc biết viết thì không kiếm được việc làm.”

“Vậy bác sống bằng gì?”

“Lão có chợ cấp.”

“Chợ cấp?”

“Lão được Tỉnh trưởng cho tiền, cho ở một căn buồng nhỏ trong chung cư Shoeiso ở Nogata, ngày ăn ba bữa.”

“Nghe có vẻ là một cuộc sống khá tốt. Ít nhất là đối với tôi.”

“Cậu nói đúng. Quả là một cuộc sống khá tốt. Nakata này có một mái nhà che mưa nắng và đủ mọi thứ cần thiết. Và thi thoảng, như lúc này đây, người ta nhờ lão đi tìm mèo và khi nào tìm được thì họ cho chút đỉnh. Nhưng điều này lão phải giữ bí mật, không cho ngài Tỉnh trưởng biết, nên cậu đừng nói với ai. Họ có thể cắt bớt chợ cấp của tôi nếu họ phát hiện ra là tôi kiếm thêm được tí tiền lẻ. Chả nhiều nhặn gì, nhưng nhờ đó, thi thoảng lão cũng được biết mùi lươn. Nakata này rất khoái lươn.”

“Tôi cũng thích lươn. Nhưng tôi mới được ăn có một lần, mà đã từ lâu lắm rồi, đến nỗi tôi chả còn nhớ mùi vị nó ra sao nữa.”

“Lươn quả là một món tuyệt vời. nó có một cái gì khác hẳn so với các món ăn khác. Các món khác có thể thay thế, nhưng lươn thì, theo lão biết, không gì thay thế được.”

Trên con đường phía trước bãi đất trống, một gã thanh niên dắt một con chó săn Labrador rất lớn có một chiếc khăn đỏ thắt ở cổ. Nó liếc nhìn Otsuka nhưng rồi lại đi tiếp. Lão già và chú mèo ngồi đó, trong bãi trống, lặng lẽ chờ con chó và chủ nó biến mất.

“Vừa nãy bác nói bác đi tìm mèo,” Otsuka hỏi.

“Đúng thế. Lão tìm mèo lạc. Vì lão có thể nói chuyện đôi chút với mèo, nên lão đi khắp các ngả dò theo dấu vết của những chú mèo mất tích. Người ta nghe nói Nakata làm việc này giỏi nên đến nhờ lão tìm giúp những con mèo lạc của họ. Những ngày này, lão dành hết thời gian tìm mèo. Lão không thích đi quá xa, nên lão chỉ tìm trong phạm vi Quận Nakono thôi. Nếu không thì chính lão sẽ lạc và họ lại phải đi tìm lão.”

“Vậy là ngay lúc này đây, bác đang tìm một con mèo lạc?”

“Phải, đúng thế. Nakata này đang tìm một con mèo cái mai rùa một tuổi tên là Goma. Ảnh nó đây.” Nakata rút trong cái túi vải bố đeo ở vai ra một tấm ảnh màu, đưa cho Otsuka xem. “Nó đeo một cái vòng cổ chống bọ chét màu nâu.”

Otsuka vươn cổ ra nhìn tấm ảnh, rồi lắc đầu.

“Không, tôi chưa hề gặp con này. Tôi biết hầu hết bọn mèo trong vùng, nhưng con này thì tôi không biết. Chưa bao giờ thấy hoặc nghe nói gì về nó cả.”

“Có đúng thế không?”

“Bác tìm nó đã lâu chưa?”

“Hôm nay là… để xem nào… một, hai, ba… ngày thứ ba.”

Otsuka ngồi nghĩ một lúc. “Tôi đồ là bác cũng biết điều này: mèo là loài thủ cựu. Thông thường, bọn tôi sống rất ngăn nắp, và nói chung, luôn giữ thông lệ trừ phi có điều gì phi thường xảy ra. Điều khả dĩ làm đảo lộn lề thói ấy chỉ có thể là tình dục hay tai nạn.”

“Nakata này cũng nghĩ như thế.”

“Nếu là tình dục thì chỉ cần đợi cho nó hết cơn là nó khắc về thôi. Bác hiểu tôi nói cơn tình dục nghĩa là thế nào chứ?”

“Bản thân lão chưa trải qua chuyện ấy, nhưng lão nghĩ là lão hiểu. Cái đó liên quan đến thằng cu con phải không?”

“Phải. Đầu đuôi tại thằng cu con cả,” Otsuka gật đầu, vẻ mặt nghiêm trang. “Nhưng nếu là tai nạn thì có thể bác không bao giờ thấy lại nó nữa.”

“Đúng thế.”

“Lại nữa, nếu một con mèo đi hoang vì chuyện tình dục, nó có thể lang thang quá xa, không tìm được đường về.”

“Nếu Nakata này ra khỏi Quận Nakano, cũng chẳng dễ gì tìm được đường về.”

“Chuyện đó cũng đôi lần xảy đến với tôi. Cố nhiên là đã lâu lắm rồi, dạo tôi còn trẻ măng,” Otsuka nói, him mắt lại, hồi tưởng. “Thường khi đã lạc là đâm hoảng, trở nên hoàn toàn tuyệt vọng chẳng biết làm gì. Tôi đã rất khiếp cái tình cảnh í. Chuyện tình dục có thể thực sự gây rắc rối như thế đấy. Cố nhiên, khi anh nóng máy lên, anh chỉ còn thấy cái ngay trước mũi anh thôi – ấy, cái cơn tình dục nó là thế đấy. Vậy cái con mèo cái í – tên nó là gì nhỉ? Cái con mèo lạc í?”

“Cậu muốn nói con Goma?”

“Phải, cố nhiên. Goma. Tôi muốn làm những gì có thể để giúp bác tìm thấy nó. Một ả mèo tơ mai rùa như thế, được một gia đình khá giả chăm bẵm, ắt chẳng biết gì về đường đời. Tội nghiệp, một thân một mình, không tự kiếm ăn được, không có khả năng tự vệ. Nhưng rủi thay, tôi chưa bao giờ gặp nó. Theo tôi, bác nên tìm nó ở nơi nào khác thôi.”

“Thôi được, có lẽ lão nên nghe theo lời khuyên của cậu mà đi tìm chỗ khác vậy. Nakata này xin lỗi đã phá giấc ngủ trưa của cậu. Chắc chắn một lúc nào đó lão sẽ còn ghé qua đây, vậy trong thời gian đó, nếu cậu có thấy Goma, xin vui lòng báo cho lão biết. Lão sẽ có chút đỉnh để cám ơn sự giúp đỡ của cậu.”

“Không cần đâu. Nói chuyện với bác là thú vị rồi. Xin bác cứ thoải mái ghé lại. Tôi thường ở đây vào những ngày nắng ráo. Khi nào mưa, tôi vào trú trong cái miếu đằng kia, ở chỗ những bậc đi xuống í.”

“Cảm ơn cậu nhiều. Nakata này cũng rất vui được trò chuyện với cậu. Không phải bao giờ lão cũng có thể nói chuyện dễ dàng thế này với mọi chú mèo mà lão gặp. Đôi khi, lão vừa cất lời chào, nó đã cảnh giác và chạy mất không nói nửa lời.”

“Tôi hoàn toàn có thể hình dung được. giống mèo chúng tôi có đủ loại – cũng như có đủ loại người vậy.”

“Rất đúng. Nakata này cũng cảm thấy như thế. Trên đời có đủ loại người và đủ loại mèo.”

Otsuka vươn mình rồi nhìn lên bầu trời. Nắng vàng tràn ngập bãi trống, nhưng trong không khí phảng phất có điềm báo mưa, điều mà Otsuka có thể dự cảm được. “Lúc nãy bác nói thuở bé bác bị tai nạn, vì thế đâm kém thông minh, phải không?”

“Phải. Đích thị Nakata đã nói thế. Lão bị tai nạn hồi lên chín.”

“Tai nạn như thế nào?”

“Quả thật Nakata này không nhớ lắm. Chỉ nghe kể lại là không hiểu sao mình bị sốt cao ba tuần liền. Mê man bất tỉnh trên một cái giường bệnh viện, với đủ thứ truyền vào trong ven. Cuối cùng, khi tỉnh lại, chả còn nhớ một tí gì nữa. Quên cả mặt bố, mặt mẹ, quên mặt chữ, quên cả cách đếm. Trong nhà mình ra sao cũng chẳng nhớ. Thậm chí không nhớ cả chính tên mình. Đầu hoàn toàn rỗng như cái bồn tắm đã tháo hết nước. Người ta kể lại là trước khi bị tai nạn Nakata bao giờ cũng được điểm cao ở trường. Nhưng sau trận ốm mê man ấy, lão đâm ra đần độn. Mẹ lão khóc hết nước mắt vì Nakata trở thành ngớ ngẩn, nhưng bà mất đã lâu rồi. Cha lão thì không khóc nhưng lúc nào cũng giận dữ.”

“Thay vì thông minh, bác lại có cái năng khiếu nói chuyện với mèo.”

“Đúng thế.”

“Cũng hay…”

“Ngoài ra, lão còn luôn luôn khỏe mạnh, không bao giờ ốm. Không có cái răng sâu nào và không phải đeo kính.”

“Theo tôi thấy, bác cũng khá thông minh đấy chứ.”

“Thật không?” Nakata nói, cái đầu nghiêng nghiêng. “Nakata này đã ngoài sáu mươi rồi, cậu Otsuka ạ. Một khi đã quá tuổi sáu mươi thì lão đã quen với việc bị coi là đần độn cũng như với việc chẳng ai thèm để ý đến mình. Người ta có thể sống mà không cần phải đi tàu hỏa. Cha chết rồi, không ăn đòn nữa. Mẹ cũng chết rồi, không còn khóc được nữa. Cho nên, nếu cậu bảo lão khá thông minh thì quả cũng hơi bối rối đấy. Cậu thấy đấy, nếu lão không đần độn thì ngài Tỉnh trưởng sẽ cắtchợ cấp và thẻ khiết tật để đi xe buýt cũng không còn. Nếu ngài Tỉnh trưởng bảo: Xét cho cùng, bác đâu phải đần độn, thì Nakata này biết nói sao. Cho nên cứ an phận đần độn vẫn là tốt.”

“Tôi muốn nói rằng vấn đề của bác không phải là chuyện đần độn,” Otsuka nói, vẻ mặt rất nghiêm túc.

“Thật ư?”

“Vấn đề của bác là ở chỗ cái bóng của bác nó hơi… nói thế nào nhỉ… hơi nhạt nhòa. Ngay từ phút đầu tiên nhìn thấy bác, tôi đã nghĩ thế, rằng cái bóng của bác đổ trên mặt đất chỉ sẫm bằng một nửa bóng của những người bình thường.”

“Lão hiểu.”

“Tôi đã có lần gặp một người khác như vậy.”

Miệng hơi hé ra, Nakata chằm chằm nhìn Otsuka. “Cậu muốn nói là cậu đã thấy ai đó như Nakata?”

“Phải. Vì thế tôi không quá ngạc nhiên khi thấy bác nói được tiếng mèo.”

“Khi nào?”

“Lâu rồi, khi tôi còn rất trẻ. Nhưng tôi không thể nhớ các chi tiết: diện mạo và tên của người í, thời gian và nơi gặp. Như tôi đã nói lúc nãy, loài mèo không có được thứ bộ nhớ í.”

“Lão hiểu.”

“Bóng của người í cũng như bị tách một nửa ra khỏi người. Nó cũng nhạt nhòa như bóng của bác.”

“Lão hiểu.”

“Tôi nghĩ thế này: bác nên thôi tìm mèo lạc để chuyển sang tìm cái nửa kia của bóng mình.”

Nakata giựt giựt vành mũ trong tay. “Nói thật tình, trước đây, Nakata này cũng đã có cảm giác là bóng mình èo uột. Người khác có thể không nhận thấy, nhưng lão thì có.”

“Vậy thì tốt,” mèo nói.

“Cơ mà lão đã già rồi, chả sống được bao lâu nữa. Cha mẹ chết cả rồi. Dù thông minh hay đần độn, dù biết đọc hay không biết đọc, dù có bóng hay không có bóng, một khi đến cõi thì ai cũng phải về đất thôi. Khi anh chết, người ta thiêu xác anh và bỏ tro vào một nơi gọi là Núi Quạ (Karasuyama). Núi quạ ở quận Setagaya. Một khi anh bị chôn vào đó, chắc anh chẳng thể nghĩ gì nữa. Và nếu anh không nghĩ nữa thì chả có gì mắc mớ nữa. Cho nên cứ như lão bây giờ chả tốt chán sao? Điều lão có thể làm trong khi còn sống là không bao giờ ra khỏi quận Nakano. Nhưng khi lão chết, lão sẽ phải đến Núi Quạ. Đó là điều không thể tránh khỏi.”

“Dĩ nhiên, bác nghĩ thế nào là quyền của bác,” Otsuka nói và lại liếm bàn chân. “Tuy nhiên, bác cũng nên chiếu cố đến cái bóng của mình. Nó có thể hơi bị mặc cảm tự ti một chút, với tư cách là một cái bóng. Nếu tôi là một cái bóng, tôi ắt không muốn chỉ là một nửa của chính mình.”

“Lão hiểu,” Nakata nói. “Có thể cậu có lý. Nakata này chưa bao giờ nghĩ về điều đó. Lão sẽ nghĩ thêm về chuyện này sau khi về nhà.”

“Một ý hay đấy.”

Cả hai cùng im lặng hồi lâu. Nakata lặng lẽ đứng dậy, thận trọng phẩy mấy lá có bám vào quần, đội cái mũ vải mòn xơ lên đầu, chỉnh lại vài lần cho ngay ngắn, quàng cái túi vải lên vai và nói: “Rất cám ơn. Nakata thực sự đánh giá cao những ý kiến của cậu, Cậu Otsuka. Chúc cậu luôn vui khỏe.”

“Tôi cũng xin chúc bác như vậy.”

Sau khi Nakata đi khỏi, Otsuka lại nằm xuống bãi cỏ và nhắm mắt lại. Hãy còn chút ít thời gian trước khi mây kéo đến và trời đổ mưa. Xua tan mọi ý nghĩ, mèo ta chìm vào một giấc ngủ ngắn.

 

 

Chương 7

Bảy giờ mười lăm, tôi xuống nhà hàng cạnh sảnh tiếp tân ăn điểm tâm – mấy lát bánh mì nướng, sữa nóng, giăm bông và trứng. Nhưng bữa điểm tâm miễn phí của khách sạn này còn lâu mới làm tôi đẫy dạ dày. Thức ăn hết sạch lúc nào không biết và tôi vẫn còn đói nguyên. Tôi nhìn quanh, chẳng thấy triển vọng gì được tiếp thêm và thở dài đánh thượt.

“Nào, cậu định làm gì bây giờ?” cái thằng tên là Quạ hỏi.

Nó ngồi ngay trước mặt tôi, bên kia bàn ăn.

“Cậu không còn ở nhà mình nữa, nơi cậu tha hồ nhồi nhét bất cứ cái gì cậu thích,” nó nói. “Tớ muốn nói, cậu đã bỏ nhà ra đi, phải không nào? Hãy ghi nhớ điều đó trong đầu. Cậu đã quen thói sáng dậy đã có sẵn một bữa điểm tâm tổ bố, nhưng những ngày đó đã qua lâu rồi, anh bạn ạ. Cậu sẽ phải bằng lòng với những gì nười ta cho cậu. Cậu có biết câu Ăn nhiều bụng bự, ăn ít bụng teo không? Cậu sắp có dịp nghiệm xem điều đó có thật đúng không. Bụng cậu rồi sẽ teo đi, tuy nhiên cũng phải một thời gian nữa. Liệu cậu có kham nổi không?

“Được, tớ kham nổi,” tôi đáp.

“Tốt,” Quạ nói. “Cậu phải là trang thiếu niên mười lăm tuổi kiên cường nhất hành tinh, nhớ không?”

Tôi gật đầu.

“Tốt, vậy thì hãy thôi đừng có giương mắt nhìn cái đĩa không ấy, mà hãy hành động đi!”

Theo lời khuyên ấy, tôi đứng dậy và ra quầy lễ tân thương lượng giá phòng. Tôi giải thích rằng mình là học sinh một trường trung học ở Tokyo đến đây để viết bài tốt nghiệp (đây không phải là một lời bịa đặt hoàn toàn vì cấp trung học ở trường tôi có quy chuẩn ấy). Tôi nói thêm là tôi đang thu thập tài liệu ở Thư viện Komura. Có nhiều mục phải nghiên cứu hơn tôi tưởng, cho nên tôi phải ở lại Takamatsu ít nhất là một tuần. Nhưng vì tiền mang đi có hạn, nên liệu khách sạn có thể giảm giá phòng cho tôi không, không chỉ ba ngày mà trong cả thời gian tôi lưu lại không? Tôi xin trả trước từng ngày và hứa sẽ không gây rắc rối gì.

Tôi đứng đó, trước mặt cô phụ trách tiếp tân, cố hết sức làm ra dáng một chàng trai tử tế, con nhà gia giáo bị lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Không nhuộm tóc, không xăm da. Tôi mặc một chiếc áo polo trắng nhãn hiệu Ralph Lauren sạch bong và một chiếc quần Topsiders mới toanh. Hàm răng trắng bóng, người thơm mùi xà phòng và dầu gội đầu. Tôi biết cách nói năng lễ phép. Khi tôi muốn, tôi có thể gây ấn tượng khá tốt với những người lớn tuổi hơn tôi.

Cô gái lặng lẽ nghe, gật đầu, môi hơi mím. Người nhỏ nhắn, mặc đồng phục với áo vest có phù hiệu khoác ngoài sơ mi trắng, trông cô có vẻ hơi buồn ngủ, nhưng thi hành công vụ thoăn thoắt. Cô trạc tuổi chị gái tôi.

“Tôi hiểu,” cô nói, “nhưng tôi phải trình bày với ông quản lý. Chúng tôi sẽ trả lời cậu vào quãng trưa.” Đặc giọng hành chính, nhưng tôi biết tôi đã được cô “duyệt”. Cô ghi tên tôi và số phòng. Tôi không biết cuộc thương lượng này sẽ dẫn đến đâu. Có thể nó sẽ tai hại nếu người quản lý yêu cầu tôi cho xem thẻ học sinh, chẳng hạn, hoặc tìm cách liên lạc với cha mẹ tôi. (Dĩ nhiên, khi đăng ký, tôi đã cho số điện thoại đểu). Nhưng vì tiền túi eo hẹp, tôi nghĩ cũng bõ liều một phen.

Tôi tra sổ danh bạ điện thoại Những Trang Vàng và gọi một phòng tập thể dục công cộng, hỏi xem ở đó có những loại thiết bị luyện cơ bắp nào. Họ có hầu hết các loại tôi cần và phí tập chỉ hết có sáu trăm yen một ngày. Tôi hỏi đường tới đó từ nhà ga, cảm ơn rồi gác máy.

Tôi trở về phòng lấy ba lô rồi ra phố. Tôi có thể để đồ ở trong phòng hoặc gửi vào két của khách sạn, nhưng tôi cảm thấy yên tâm hơn khi mang theo tất cả. Dường như nó đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của cơ thể tôi vậy.

Trên chuyến xe buýt từ bến xe trước cửa ga đến phòng tập, tôi có thể cảm thấy da mặt mình căng ra vì phập phồng. Giả sử có người hỏi tại sao một thằng nhóc ở tuổi tôi lại la cà ở phòng tập thể dục giữa ban ngày thay vì đến trường? Tôi chẳng biết gì về cái thành phố này cũng như cách nghĩ của những người dân ở đây. Nhưng chẳng ai buồn nhìn tôi đến lần thứ hai. Tôi bắt đầu cảm thấy như mình là Người Vô Hình hay đại khái như thế. Tôi trả tiền vào cửa ở quầy thu phí, không ai hỏi gì và người ta giao cho tôi một chiếc chìa khóa mở ngăn để quần áo. Sau khi thay đồ, mặc quần soọc và áo phông, tôi tập vài bài vươn giãn. Cơ bắp thư giãn, tinh thần cũng thư giãn theo. Tôi thấy an toàn trong cái vỏ bọc gọi là thằng tôiđây. Tôi chui vào vành trong vừa khít của  và khóa lại đánh tách. Đúng ý tôi. Tôi đang ở chỗ phù hợp.

Tôi bắt đầu bài luyện liên hoàn. Vừa nghe Prince gào trong chiếc Walkman bỏ túi, tôi vừa tập suốt một giờ trên cả loạt bảy cái máy khác nhau. Tôi cứ tưởng một phòng tập thể dục công cộng ở một thành phố nhỏ như thế này chắc phải đầy những máy cổ lỗ sĩ, nhưng những máy này thuộc những môđen gần đây nhất còn thơm mùi thép mới. Vòng đầu, tôi tập với trọng lượng nhẹ, rồi sang vòng hai, tăng mức cân lên. Tôi biết đích xác mức cân nào và bao nhiêu lần thì hiệu quả đối với tôi. Chẳng mấy chốc tôi đã đổ mồ hôi và thỉnh thoảng lại ngừng để tợp một ngụm nước và nhấm một múi quả chanh tôi mua trên dọc đường tới đây.

Tập xong, tôi tắm nước nóng ở vòi hoa sen, dùng xà phòng và dầu gội đầu mang theo. Tôi rửa chim thật kỹ (mới bóc bao quy đầu chưa được bao lâu), xát xà phòng cả hai hòn dái, nách và hậu môn. Tôi tự cân, trần truồng đứng trước gương, thử độ co duỗi của cơ bắp. Cuối cùng, tôi giặt chiếc áo phông và quần soọc đẫm mồ hôi, vắt kiệt nước rồi nhét vào một túi ni lông.

Tôi đáp xe buýt trở về ga, đánh một bát udon nóng bốc hơi vẫn ở nhà hàng hôm trước. Tôi nhẩn nha vừa ăn vừa nhìn ra ngoài cửa sổ. Ga đông nghịt người nườm nượp ra vào, tất cả đều mặc những bộ quần áo ưa thích, tay xách túi hoặc va li, mỗi người đều tất tả lo toan một công việc khẩn cấp nào đó. Tôi nhìn đám đông không ngừng hối hả ấy và tưởng tượng đến một trăm năm về sau. Một trăm năm nữa, tất cả mọi người ở đây, kể cả tôi, sẽ biến khỏi mặt đất và biến thành tro bụi. Với ý nghĩ kỳ cục ấy, mọi thứ trước mắt tôi dường như bắt đầu trở nên hư ảo, tựa hồ một ngọn gió có thể cuốn hết đi.

Tôi xòe hai bàn tay ra trước mặt và nhìn thật riết vào chúng. Tôi cứ luôn căng thẳng vì cái gì vậy? Can cớ gì lại phải lao vào cuộc vật lộn tuyệt vọng này để sống còn? Tôi lắc đầu, quay mặt khỏi cửa sổ, xua đuổi cái ý nghĩ về một trăm năm sau. Tôi sẽ chỉ nghĩ về hiện tại. Về những cuốn sách mà tôi cần đọc ở thư viện, những thiết bị ở phòng tập mà tôi chưa tận dụng. Nghĩ đến những chuyện khác sẽ chẳng ích gì.

“Thế mới đúng,” Quạ nói. “Hãy nhớ lấy, cậu phải là trang thiếu niên mười lăm tuổi kiên cường nhất hành tinh.”

Giống như hôm trước, tôi mua một suất trưa hộp ở nhà ga và đáp tàu, đến Thư viện Komura vào lúc mười một rưỡi. Và y như rằng Oshima đã ở đó, đằng sau quầy. Hôm nay anh ta mặc một sơ mi sợi tơ nhân tạo màu xanh lơ cài cúc đến tận cổ, quần jeans trắng, giày tennis trắng. Anh ta ngồi ở bàn làm việc, chúi mũi vào một quyển sách to tướng, chiếc bút chì vàng để bên cạnh – vẫn chiếc bút chì hôm qua, tôi đoán thế – tóc xõa cả xuống mặt. Khi tôi vào, anh ngước mắt lên, mỉm cười và nhận chiếc ba lô từ tay tôi.

“Tôi thấy là cậu vẫn chưa trở về trường.”

“Em sẽ không bao giờ trở lại đó nữa,” tôi thú thật.

“Vậy thì thư viện là một lựa chọn khá tốt đấy,” Anh quay lại xem giờ trên chiếc đồng hồ treo đằng sau, rồi lại đọc tiếp.

Tôi sang phòng đọc, trở lại với cuốn Nghìn Lẻ Một Đêm. Như mọi lần, một khi đã yên vị và bắt đầu lật giở các trang sách là tôi không thể dừng lại. Bản của Burton có đầy đủ các truyện mà tôi nhớ là đã đọc hồi nhỏ, nhưng tất cả đều dài hơn, nhiều hồi hơn và nhiều tình tiết phức tạp hơn, nên hấp dẫn hơn nhiều, đến nỗi khó mà tin rằng đây vẫn là những truyện ấy. Đầy những màn tục tĩu, hung bạo đắm đuối tình dục và phi lý. Giống như vị thần bị nhốt trong lọ, cuốn sách tràn trề một sinh khí chơi quậy, một ý thức tự do mà lẽ phải không kiềm chế nỗi. Nó làm tôi say mê không rời ra được. So với đám người vô diện mạo tất ta tất tưởi ở ga xe lửa, những truyện điên khùng phi lý này của cả ngàn năm trước còn thật hơn nhiều, ít nhất là đối với tôi. Làm sao có thể thế được, tôi cũng không hiểu. Thật quái dị.

Đến một giờ, tôi lại ra vườn, ngồi ở hiên sau ăn bữa trưa. Ăn được gần nửa thì Oshima đến bảo là có người gọi điện thoại cho tôi.

“Cho em?” tôi ngớ ra.

“Nếu đúng cậu tên là Kafka Tamura.”

Tôi đỏ mặt đứng dậy và cầm lấy ống nghe không dây từ tay anh.

Đó là cô tiếp tân ở khách sạn, chắc là để kiểm tra xem có thật tôi đang nghiên cứu tài liệu ở thư viện không. Cô có vẻ như trút được gánh nặng khi thấy rằng tôi không nói dối cô. “Tôi đã nói chuyện với ông quản lý,” cô nói, “ông bảo là khách sạn này trước đây chưa từng làm thế, nhưng thấy cậu còn trẻ quá và xét hoàn cảnh đặc biệt, nên ông sẽ làm một ngoại lệ là để cậu ở với giá mà YMCA 1 thu xếp cho cậu. Hiện tại, chúng ta không đông khách lắm, ông nói, nên chúng ta có thể linh động một chút. Ông cũng nói rằng nghe đồn cái thư viện ấy rất tốt, nên ông hy vọng là cậu có thể dư dả thời gian để nghiên cứu mọi thứ mình cần.”

Tôi thở phào nhẹ nhõm và cảm ơn cô. Tôi hơi áy náy vì đã nói dối, nhưng tôi không thể làm khác được. Bản thân tôi cũng đã phải vi phạm một số luật lệ để tồn tại. Tôi tắt máy và trả ống nghe lại cho Oshima.

“Cậu là học sinh trung học duy nhất đến đây, nên tôi đã đoán ngay là cô ta gọi cậu,” anh ta nói. “Tôi đã bảo cô ta là cậu cứ chúi mũi vào những trang sách từ sáng đến tối. Mà đó là sự thật.”

“Cám ơn anh,” tôi nói.

“Kafka Tamura?”

“Đó là tên em.”

“Kể cũng lạ.”

“Đúng là tên em mà,” tôi nhấn mạnh.

“Tôi đồ rằng cậu đã đọc truyện của Kafka?”

Tôi gật đầu. “Lâu Đài, Vụ Án, Hóa Thân và cái truyện quái đản về cái máy hành hình.”

Trại Giam,” Oshima nói. “Mình mê cái truyện ấy. Chỉ có Kafka mới viết được thế.”

“Đó là truyện em thích nhất trong các tác phẩm của ông.”

“Thật không?”

Tôi gật đầu.

“Tại sao?”

Tôi phải mất một lúc để tập trung tư tưởng. “Em nghĩ Kafka muốn đưa ra một giải thích thuần túy cơ học về cái máy phức hợp ấy thay vì mô tả thân phận con người. Em muốn nói là…” tôi dừng lại một chút để suy nghĩ thêm. “Em muốn nói đó là thủ pháp riêng của ông để diễn giải kiếp sống của chúng ta. Không phải bằng cách nói về thân phận chúng ta mà bằng cách mô tả chi tiết cái máy đó.

“Có lý,” Oshima nói, đặt tay lên vai tôi, một cử chỉ tự nhiên và thân thiện. “Tôi nghĩ có thể Kafka đồng ý với cậu đấy.”

Anh cầm cái ống nghe không dây và trở vào trong nhà. Tôi ngồi lại ngoài hiên một lúc nữa, ăn nốt bữa trưa, uống nước khoáng, ngắm lũ chim trong vườn. Có lẽ vẫn là lũ chim hôm qua. Trời đầy mây, không thấy một mảng xanh nào.

Có vẻ như Oshima thấy cách lý giải của tôi về truyện của Kafka là thuyết phục. Ít nhất là ở một mức độ nào đó. Nhưng tôi chưa diễn đạt hết điều tôi muốn nói. Đó không chỉ là một lý thuyết chung chung về cách hư cấu của Kafka, mà tôi nhằm nói về một cái gì rất thực kia. Cái máy hành quyết bí ẩn, phức tạp của Kafka không chỉ là một ẩn dụ hoặc một thứ ngụ ngôn – nó thực sự hiện hữu, ở đâu đây quanh tôi. Nhưng tôi nghĩ ắt chẳng ai hiểu gì. Cả Oshima lẫn những người khác.

Tôi trở về phòng đọc, ngồi xuống chiếc ghế bành để đắm mình vào thế giới của Nghìn Lẻ Một Đêm. Từ từ, như cảnh quay mờ dần trong phim, thế giới thực tại tan biến. Chỉ còn mình tôi trong thế giới đó. Cảm giác mà tôi ưa thích nhất trên đời.

Năm giờ, khi tôi sắp ra về, Oshima còn ngồi sau quầy, vẫn đọc cuốn sách ấy, chiếc sơ mi vẫn phẳng phiu không một nếp nhăn, mớ tóc vẫn xõa xuống mặt. Kim đồng hồ treo trên tường đằng sau anh vẫn lặng lẽ nhích từng tí một. Mọi thứ quanh anh đều lặng lẽ và sạch tinh. Dễ thường anh không bao giờ đổ mồ hôi hoặc nấc cục. Anh ngước lên và trao trả tôi chiếc ba lô. Anh hơi cau mày như thể nó quá nặng đối với anh.

“Cậu đáp tàu từ trung tâm thành phố tới đây?”

Tôi gật đầu.

“Nếu cậu đến đây hằng ngày thì nên có cái này,” anh chìa cho tôi một tờ giấy, đó là bảng giờ tàu giữa ga Takamatsu và ga tôi phải xuống để tới thư viện. “Tàu thường chạy đúng giờ.”

“Cám ơn,” tôi nói và nhét tờ giấy vào ba lô.

“Kafka, tôi không biết cậu từ đâu tới và định làm gì, nhưng cậu không thể ở khách sạn mãi được, phải không nào?” anh nói, thận trọng cân nhắc từng chữ. Anh lấy đầu ngón tay thử gại vào đầu bút chì, điều hoàn toàn không cần thiết vì bút chì đã được vót rất tốt.

Tôi không nói gì.

“Tôi không có ý định can thiệp đâu, mà chỉ nghĩ mình cũng có thể hỏi cho biết. Một thiếu niên ở tuổi cậu giữa một nơi trước đây chưa từng đến, thật chẳng dễ dàng gì.”

Tôi lại gật đầu.

“Sau đây cậu có đi nơi nào khác không? Hay cậu định lưu lại đây một thời gian?”

“Em chưa quyết định, nhưng em nghĩ em sẽ lưu lại đây một thời gian. Không có nơi nào khác mà đi,” tôi thừa nhận.

Có lẽ tôi nên kể với Oshima tất cả. Tôi dám chắc anh sẽ không chê trách tôi, hoặc lên lớp tôi, chỉ bảo cho tôi thấy điều hay lẽ phải. Nhưng ngay lúc này đây, tôi đang cố giữ miệng, chỉ nói ở mức tối thiểu. Với lại, tôi vốn không quen thổ lộ những cảm nghĩ của mình với người khác.

“Vậy tạm thời cậu nghĩ là cậu có thể tự xoay xở được?” Oshima hỏi.

Tôi gật đầu ngắn gọn.

“Thế thì chúc may mắn.”

Tôi qua bảy ngày tiếp theo cũng theo quy trình ấy, ngoại trừ vài chi tiết nhỏ (tất nhiên trừ thứ Hai thư viện đóng cửa, hôm ấy tôi đến một thư viện công cộng khác). Mỗi sáng, đồng hồ báo thức đánh thức tôi vào lúc sáu rưỡi. Tôi ngốn vội cái gọi là điểm tâm của khách sạn, khẽ vẫy chào cô gái tóc màu hạt dẻ, nếu cô đã ngồi sau quầy tiếp tân. Bao giờ cô cũng gật đầu và mỉm cười đáp lại. Tôi nghĩ cô thích tôi và tôi cũng có phần thích cô. Liệu cô có thể là chị tôi không nhỉ? Ý nghĩ đó thoáng qua đầu tôi.

Sáng sáng, tôi làm vài bài tập vươn giãn đơn giản trong phòng trước khi đến phòng tập thể dục thực hiện đủ chuỗi bài tập liên hoàn. Bao giờ cũng vẫn mức tạ ấy và ngần ấy lượt. Không hơn không kém. Tắm vòi hoa sen, kỳ cọ từng phân vuông trên người. Tự cân để kiểm tra trọng lượng cơ thể. Trước giờ trưa, đáp tàu đến Thư viện Komura. Trao đổi vài câu với Oshima khi gửi ba lô ở quầy và khi nhận lại từ tay anh. Ăn suất cơm trưa ngoài hiên. Và đọc. Đọc xong Nghìn Lẻ Một Đêm, tôi chuyển sang toàn tập Natsume Soseki – hãy còn vài cuốn tiểu thuyết của ông mà tôi chưa đọc. Năm giờ, tôi ra khỏi thư viện. Như vậy, phần lớn thời gian trong ngày, tôi ở phòng tập thể dục và thư viện. Chừng nào tôi ở một trong hai nơi ấy, chẳng ai để ý đến tôi. Lý nào một thằng nhóc trốn học lại lảng vảng ở hai nơi ấy. Tôi ăn tối ở cái nhà hàng trước cửa ga. Tôi cố ăn thật nhiều rau và thỉnh thoảng còn mua trái cây, dùng con dao tôi lấy trên bàn giấy của cha tôi để gọt. Tôi mua dưa chuột và cần tây, rửa sạch ở bồn trong khách sạn và ăn với xốt mayonaise. Thi thoảng, tôi mua một thùng sữa ở siêu thị mini để ăn với hạt ngũ cốc.

Trở về phòng, tôi ghi những gì đã làm trong ngày vào nhật ký, nghe Radiohead trên chiếc Walkman, đọc một chút rồi đến mười một giờ, tắt đèn. Đôi khi, tôi thủ dâm trước khi ngủ. Tôi tưởng tượng đến cô gái ở quầy tiếp tân, tạm thời gạt mọi ý nghĩ về khả năng cô ta có thể là chị mình. Tôi hầu như không xem tivi hoặc đọc báo.

Nhưng đến chiều ngày thứ tám, cuộc sống giản dị, hướng tâm ấy bỗng tan tành, như sớm muộn tất sẽ phải thế.

——————————–

1

Chương 8

BÁO CÁO CỦA CỤC TÌNH BÁO QUÂN ĐỘI MỸ (MIS)
Ngày: 12 tháng Năm năm 1946
Tên: Báo cáo về sự kiện Đồi Bát Cơm, 1944
Tài liệu số: PTYX-722-8936745-42216-WWN 

Dưới đây là cuộc thẩm vấn ghi âm với Tiến sĩ Shigenori Tsukayama (52 tuổi), giáo sư Khoa Tâm thần học Trường Y khoa, Đại học Hoàng gia Tokyo, diễn ra trong vòng ba giờ tại Đại bản doanh Tư lệnh Tối cao các Lực lượng Đồng minh. Các tài liệu liên quan đến cuộc thẩm vấn này có thể truy cập theo số PTYX-722-SQ-267 đến 291. [Chú thích: các tài liệu 271 và 278 bị mất]

Cảm giác của người thẩm vấn, Trung úy Robert O’Connor: Giáo sư Tsukayama rất bình tĩnh và thoải mái trong suốt cuộc thẩm vấn, như người ta có thể chờ đợi ở một chuyên gia tầm cỡ như ông. Ông là một trong những nhà tâm thần học hàng đầu ở Nhật Bản và đã xuất bản một số sách xuất sắc về vấn đề này. Không giống như phần lớn người Nhật, ông tránh những câu phát biểu mơ hồ, phân biệt rạch ròi giữa sự việc thực tế và phỏng đoán. Trước chiến tranh, ông đã ở Stanford trong khuôn khổ trao đổi và nói tiếng Anh rất thạo. Chắc chắn ông được nhiều người kính trọng và yêu mến.

Chúng tôi được lệnh của bên quân sự là phải tiến hành xem xét ngay những đứa trẻ có vấn đề. Đó là vào giữa tháng Mười một năm 1944. Đối với chúng tôi, những yêu cầu hoặc mệnh lệnh đến từ các nhà chức trách quân sự là điều thật bất thường. Tất nhiên, bên quân sự có ngành y riêng của mình và, với tư cách là một thực thể riêng biệt coi bí mật là ưu tiên hàng đầu, họ thường xử lý các vấn đề trong phạm vi nội bộ. Trừ những trường hợp hiếm hoi khi họ cần đến những kiến thức và kỹ thuật đặc biệt mà chỉ những nhà nghiên cứu hoặc thầy thuốc ngoài quân đội nắm được, họ ít khi cầu đến các nhà nghiên cứu dân sự.

Cho nên khi họ phá lệ này, chúng tôi lập tức đoán rằng một chuyện gì đó bất thường đã xảy ra. Thành thực mà nói, tôi không thích làm việc dưới sự chỉ đạo của quân đội. Trong phần lớn các trường hợp, mục đích của họ là thuần túy thực dụng, chứ không hề quan tâm đến việc theo đuổi chân lý theo nghĩa học thuật, chỉ đi đến những kết luận phù hợp với những tiên kiến của họ. Họ không phải loại người tuân thủ lô-gích. Nhưng đây là thời chiến và chúng tôi không thể nói không. Chúng tôi phải im miệng và làm đúng những gì họ sai bảo.

Chúng tôi vẫn tiếp tục công trình nghiên cứu của mình, bất chấp các cuộc không kích của Mỹ. Khốn nỗi, phần lớn sinh viên của chúng tôi đã bị động viên và sinh viên Khoa Tâm thần học cũng không được miễn quân dịch. Khi lệnh của bên quân sự đến, chúng tôi bỏ hết mọi công việc và đáp tàu đến [tên bị xóa] ở tỉnh Yamanashi. Chúng tôi có ba người: bản thân tôi, một đồng nghiệp cũng ở Khoa Tâm thần học và một bác sĩ ở Khoa Giải phẫu thần kinh.

Vừa tới nơi, họ đã cảnh báo chúng tôi rằng điều mà họ sắp cho chúng tôi biết là một bí mật mà chúng tôi không bao giờ được để lộ. rồi họ kể với chúng tôi về cái sự kiện xảy ra hồi đầu tháng. Mười sáu học sinh đã bất tỉnh trên đồi, sau đó mười lăm em đã hồi tỉnh mà hoàn toàn không nhớ điều gì đã xảy ra. Theo lời họ, một bé trai đã không tỉnh lại và hiện vẫn đang ở trong một viện quân y ở Tokyo.

Ông bác sĩ – thiếu tá quân đội đã khám bọn trẻ ngay sau khi xảy ra chuyện, một chuyên gia nội khoa tên là Toyama – đã giải thích cặn kẽ cho chúng tôi về điều đã xảy ra. Nhiều bác sĩ quân đội thường giống những kẻ quan liêu chỉ lo bảo vệ quyền lợi riêng của mình, nhưng may thay, Thiếu tá Toyama không thuộc loại đó. Ông ta trung thực và thẳng thắn, và hiển nhiên là một bác sĩ tài giỏi. Ông không bao giờ viện cớ chúng tôi là dân sự để át giọng hoặc giấu giếm chúng tôi điều gì, như một số người có thể làm thế. Ông cung cấp mọi chi tiết chúng tôi cần, một cách rất chuyên nghiệp và cho chúng tôi xem những hồ sơ y tế về lũ trẻ. Ông muốn đi vào cốt lõi của vấn đề. Tất cả chúng tôi đều có ấn tượng rất tốt về ông.

Điều quan trọng nhất chúng tôi gạn lọc ra từ những hồ sơ là, về mặt y học, sự cố này không gây hậu quả lâu dài đối với bọn trẻ. Từ ngay sau bữa đó cho đến hôm nay, các cuộc khám và xét nghiệm đều không phát hiện thấy có gì bất bình thường bên ngoài cũng như bên trong nội tạng. Bọn trẻ tiếp tục sống khỏe mạnh như trước khi xảy ra sự kiện đó. Những cuộc khám kỹ lưỡng cho thấy một trong số bọn trẻ có ký sinh trùng, nhưng không có gì nghiêm trọng. Ngoài ra, chúng hoàn toàn không có triệu chứng gì – không đau đầu, đau nhức, buồn nôn, kém ăn, mất ngủ, đờ đẫn, ỉa chảy, ác mộng. Hoàn toàn không.

Điều đặc biệt duy nhất là cả quãng thời gian hai tiếng đồng hồ bất tỉnh trong vùng đồi đã bị xóa sạch khỏi trí nhớ của lũ trẻ. Cứ như thể toàn bộ cái phần ấy đã bị lược đi. Đó là một sự thiếu hụt trí nhớ, chứ không phải mất trí nhớ. Từ này không phải là thuật ngữ y học, tôi dùng nó cho tiện thôi, nhưng có một sự khác biệt lớn giữa mất và thiếu hụt. Tôi đồ rằng nó tựa như… ờ phải, hãy tưởng tượng một đoàn tàu hàng chạy trên đường sắt. Hàng hóa biến khỏi một toa và toa rỗng không – thế gọi là mất. Nhưng nếu cả cái toa ấy bốc hơi, thì là thiếu hụt.

Chúng tôi bàn cãi về khả năng bọn trẻ hít phải hơi độc. Bác sĩ Toyama nói rằng dĩ nhiên họ đã xem xét giả thuyết này.Chính vì thế mà quân đội can dự vào, ông nói với chúng tôi, nhưng xem ra xác suất là rất nhỏ. Ông nói tiếp: Song đây là bí mật quân sự, các vị không được nói với ai. Quả là quân đội đang phát triển hơi độc và vũ khí sinh học, nhưng việc này được tiến hành bởi một đơn vị đặc biệt ở nội địa Trung Hoa, chứ không phải ở trên chính đất Nhật. Đó là một dự án rất nguy hiểm, không thể thực thi ở nơi đông dân như Nhật Bản được. Tôi không thể nói với các vị là những thứ vũ khí ấy có được tàng trữ ở nơi nào trên đất Nhật hay không, nhưng tôi có thể đảm bảo dứt khoát với các vị rằng chúng không được giữ ở bất cứ nơi nào trong tỉnh Yamanashi.

– Vậy là ông ta dứt khoát phủ nhận việc tàng trữ vũ khí đặc biệt ở trong tỉnh?

Đúng. Ông ta rất rõ ràng về điểm này. Về cơ bản, chúng tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc tin ông ta, vả chăng, xem ra ông ta là người có thể tin được. Chúng tôi cũng kết luận rằng không có lẽ hơi độc lại được ném xuống từ một chiếc máy bay B-29. Nếu người Mỹ đã thực sự phát triển một vũ khí như thế, và quyết định dùng nó, họ ắt phải ném nó xuống một thành phố lớn mới gây được tác hại hàng loạt chứ. Ném một, hai trái bom hơi độc xuống một nơi hẻo lánh sẽ không cho phép họ xác định được hiệu quả của nó. Vả chăng, ngay cả nếu ta chấp nhận giả thuyết là một quả bom hơi độc đã được ném xuống đó, thì cái thứ hơi độc chỉ làm trẻ con bất tỉnh hai giờ mà không có tác hại lâu dài nào khác cũng là vô giá trị về mặt quân sự.

Chúng tôi cũng biết rằng không một thứ hơi độc nào, dù là nhân tạo hay tự nhiên, lại tác động như thế, chẳng để lại hậu quả gì hết. Nhất là khi áp dụng với trẻ con, vốn nhạy cảm hơn người lớn và có hệ miễn dịch yếu hơn, lẽ ra phải có chút hậu quả nào chứ, đặc biệt với mắt hoặc màng nhầy. Chúng tôi loại trừ khả năng ngộ độc thức ăn cũng vì lý do ấy.

Vậy chỉ còn lại những vấn đề tâm lý hoặc những vấn đề liên quan đến chức năng não. Trong trường hợp như vậy, phương pháp y học tiêu chuẩn sẽ không giúp gì vào việc cách ly nguyên nhân. Hậu quả có thể sẽ không thấy được và không định lượng được. Cuối cùng, chúng tôi hiểu ra tại sao bên quân đội lại gọi chúng tôi đến để tham vấn.

Chúng tôi phỏng vấn riêng từng đứa trẻ mắc vào sự cố cũng như cô giáo chủ nhiệm và bác sĩ điều trị. Thiếu ta Toyama cũng tham dự. Nhưng những cuộc phỏng vấn ấy hầu như không đem lại điều gì mới, mà chỉ giúp chúng tôi xác nhận những gì ông thiếu tá đã nói với chúng tôi. Lũ trẻ không nhớ tí gì về sự kiện đó. Chúng nhìn thấy một cái gì giống như máy bay lấp lánh tít trên trời, chúng trèo lên Owan yama (Đồi Bát Cơm) và bắt đầu tìm nấm. Thế rồi có một khoảng trống trong thời gian và điều tiếp theo chúng nhớ được là thấy mình nằm trên mặt đất, xung quanh là những bộ mặt lo lắng của các thầy cô giáo và cảnh sát. Chúng cảm thấy ổn, không đau đớn, khó chịu hoặc buồn nôn gì cả. Chúng chỉ cảm thấy đầu hơi trống rỗng như mới thức giấc vào sáng sớm. Chỉ có thế thôi. Đứa nào cũng trả lời hệt như thế.

Sau khi tiến hành các cuộc phỏng vấn đó, chúng tôi kết luận rằng đây là một ‘ca’ hôn mê hàng loạt. những triệu chứng mà cô giáo chủ nhiệm và ông bác sĩ của nhà trường quan sát được tại chỗ cho thấy giả thuyết này là có lý nhất: nháy mắt đều đặn, nhịp thở, mạch và nhiệt độ đều hơi hạ, trí nhớ hụt hẫng – tất cả đều ứng hợp. chỉ có cô giáo là không bị ngất bởi lẽ cái chất gây nên sự hôn mê hàng loạt này, không hiểu vì lý do gì, không có tác động đối với người lớn.

Tuy nhiên, chúng tôi không thể xác định được nguyên nhân. Nói chung, phải có hai yếu tố mới sinh ra hôn mê tập thể. Thứ nhất, tập thể đó phải gắn bó chặt chẽ và đồng nhất, lại bị đặt trong hoàn cảnh bó hẹp. Thứ hai, phải có cái gì phát động phản ứng, một cái gì tác động cùng một lúc lên tất cả mọi người. Trong trường hợp cụ thể này, tác nhân đó có thể là cái ánh lấp lánh của chiếc máy bay mà chúng đã nhìn thấy. Xin nhớ, đây chỉ là một giả thuyết – chúng tôi không tìm thấy tác nhân nào khác – và rất có thể có một nhân tố nào khác đã khởi phát hiện tượng này. Tôi trình bày với Thiếu tá Toyama giả thuyết về một “ca” hôn mê tập thể, nhấn mạnh đó chỉ là một phỏng đoán. Nói chung, hai đồng nghiệp của tôi cũng đồng ý. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên: điều này lại gián tiếp liên quan đến một đề tài nghiên cứu mà chính chúng tôi đang thực hiện.

“Có vẻ như khớp với những bằng chứng,” Thiếu tá Toyama nói sau một lát suy nghĩ. “Đây không phải là lĩnh vực của tôi, nhưng xem ra đây là cách giải thích có lý nhất. Nhưng có một điều tôi không hiểu: điều gì làm cho chúng thoát ra khỏi cơn hôn mê? Chắc phải có một thứ cơ chế khởi động nghịch đảo chứ?”

Tôi thừa nhận là mình thực sự không biết. Tôi chỉ có thể suy biện mà thôi. Giả thuyết của tôi là thế này: cơn hôn mê có thể đã được lập trình để tự động chấm dứt sau một quãng thời gian nào đó. Cơ thể con người có một cơ chế tự vệ rất mạnh; nếu một hệ thống bên ngoài tạm thời chiếm lĩnh, thì chỉ sau một quãng thời gian, nó sẽ phản ứng tựa như rung chuông báo động, khởi động một hệ thống đột xuất để hóa giải cái hệ thống ngoại lai (trong trường hợp này là cơn hôn mê) đang chặn đứng cơ chế tự vệ nội tại.

Rủi thay, tôi không có sẵn tư liệu trong tay nên không thể dẫn ra những con số chính xác, nhưng tôi đã nói với Thiếu tá Toyama, đã có những báo cáo về những sự kiện tương tự xảy ra ở nước ngoài. Tất cả những vụ đó đều được coi như những bí ẩn không giải thích một cách lô-gích được. Một số lớn trẻ con đồng thời bất tỉnh rồi vài giờ sau hồi tỉnh mà không nhớ điều gì đã xảy ra.

Nói cách khác, sự kiện này rất khác thường nhưng không phải không có tiền lệ. Một thí dụ kỳ lạ đã diễn ra vào khoảng năm 1930 ở ven một làng thuộc Devonshire, nước Anh. Chẳng vì lý do cụ thể nào, một nhóm ba mươi học sinh trung học phổ thông lần lượt gục ngã bất tỉnh trên một con đường nông thôn. Mấy giờ sau, như không có chuyện gì xảy ra, tất cả hồi tỉnh và tự đi bộ về trường. Một thầy thuốc đã khám ngay cho chúng, nhưng không phát hiện thấy điều gì không ổn về mặt y học. Không một đứa nào nhớ được điều gì đã xảy ra.

Vào cuối thế kỷ trước, một sự cố tương tự đã xảy ra ở Úc. Ở ngoại thành Adelaide, mười lăm nữ sinh một trường nữ học tư thục đã bất tỉnh trong một cuộc đi chơi ngoại khóa, rồi tỉnh lại. Đây cũng lại không có tổn thương nào, không có hậu quả gì. Cuối cùng, chuyện này được xếp loại là một “ca” say nhiệt, nhưng tất cả đã ngất rồi tỉnh lại gần như cùng một lúc mà không ai bộc lộ triệu chứng say nhiệt cả, nên nguyên nhân thực sự vẫn là một bí ẩn. Thêm nữa, hôm xảy ra chuyện ấy không phải là một ngày đặc biệt nóng. Có lẽ họ kết luận như thế vì không có cách giải thích nào khác.

Những trường hợp kể trên có một số điểm chung: xảy đến với một nhóm trẻ nhỏ, trai hoặc gái, ở cách trường chúng khá xa, tất cả đều bị bất tỉnh, về cơ bản là đồng thời rồi cùng tỉnh dậy một lúc mà không bộc lộ hậu quả gì. Theo báo cáo, một số người lớn đi cùng bọn trẻ cũng bị ngất, còn một số thì không. Về điểm này, mỗi trường hợp một khác.

Còn có một số sự kiện khác tương tự, nhưng hai trường hợp này là có đầy đủ tài liệu nhất và do đó trở thành những “ca” tiêu biểu cho hiện tượng này. Tuy nhiên, thí dụ gần đây ở tỉnh Yamanashi chứa đựng một yếu tố khiến nó khác biệt với những trường hợp khác: cụ thể là có một bé trai không tỉnh lại. Đứa bé này là chìa khóa để mở ra sự thật về toàn bộ biến cố này. Chúng tôi trở về Tokyo sau những cuộc phỏng vấn ở Yamanashi và đến thẳng viện quân y nơi thằng bé được điều trị.

– Vậy là quân đội chỉ quan tâm đến sự cố này vì họ ngờ rằng nó có thể gây nên bởi hơi độc?

Theo tôi hiểu thì là thế. Nhưng thiếu tá Toyama chắc biết rõ hơn và tôi đề nghị các ông nên trực tiếp hỏi ông ấy.

– Thiếu tá Toyama đã chết trong một trận không kích ở Tokyo hồi tháng Ba năm 1945 trong khi thi hành công vụ.

Tôi lấy làm tiếc khi nghe tin đó. Chúng ta mất bao nhiêu người tài giỏi trong chiến tranh.

– Tuy nhiên, cuối cùng, quân đội kết luận đây không phải do loại vũ khí hóa học nào gây ra. Họ không thể xác định được nguyên nhân, nhưng họ lại khẳng định – có phải thế không? – rằng sự việc này không liên quan gì với cuộc chiến.

Phải, tôi nghĩ đúng là như vậy. Đến đoạn đó là họ kết thúc cuộc điều tra. Nhưng thằng bé Nakata vẫn được ở lại viện quân y vì đích thân Thiếu tá Toyama quan tâm đến “ca” này và có quan hệ với những người phụ trách ở đây. Thành thử chúng tôi có thể đến bệnh viện hàng ngày và thay phiên nhau trực đêm để tìm hiểu kỹ hơn trường hợp của đứa bé bất tỉnh này từ nhiều góc độ khác nhau.

Mặc dù bất tỉnh, các chức năng cơ thể của thằng bé vẫn tiếp tục bình thường. Nó được tiêm chất dinh dưỡng qua đường ven và tiểu tiện với những khoảng cách đều đặn. Ban đêm, nó nhắm mắt ngủ khi chúng tôi tắt đèn và mở mắt lại vào buổi sáng. Ngoài việc mất ý thức, nó có vẻ hoàn toàn khỏe mạnh. Nó ở trong một cơn hôn mê, nhưng rõ ràng là nó không mơ. Khi người ta mơ, điều đó bộc lộ ra bằng những cử động đặc biệt của nhãn cầu hoặc những sắc thái của nét mặt. Nhịp tim tăng lên khi phản ứng với những gì thấy trong mơ. Nhưng với Nakata, chúng tôi không thể phát hiện thấy bất cứ dấu hiện tương tự nào. Nhịp tim, nhịp thở và nhiệt độ của nó vẫn hơi thấp, nhưng ổn định một cách lạ lùng.

Nói thế này nghe cũng kỳ, nhưng quả là cứ như thằng cu Nakata thật đã đi chơi đâu, tạm thời để lại cái vỏ xác và cái vỏ xác này, trong khi nó đi vắng, vẫn duy trì mọi chức năng cơ thể ở mức tối thiểu cần thiết để tự bảo toàn. Cái cụm từ “hồn thoát xác” vụt đến trong óc. Ông có biết cụm từ ấy không? Tuyện dân gian Nhật Bản đầy những thứ như vậy: hồn tạm thời rời khỏi xác, đi đến một nơi rất xa để lo một việc có tính chất sống còn nào đó, rồi trở về nhập lại vào xác. Cái loại hồn mang thù hận trong Truyện Genji có một cái gì tương tự như thế. Cái khái niệm cho rằng hồn không chỉ lìa khỏi xác khi chết mà còn có thể tách khỏi xác người còn sống khi ý muốn đó đủ mạnh, có lẽ là một ý tưởng đã bắt rễ ở Nhật Bản từ thời cổ đại. Dĩ nhiên, chẳng có bằng chứng khoa học nào về hiện tượng đó và tôi thậm chí còn thấy e ngại không dám nêu ý kiến đó.

Vấn đề thực tế trước mắt chúng tôi là làm sao kéo thằng bé ra khỏi cơn hôn mê và trả nó về trạng thái ý thức. Chúng tôi xoay xở đủ mọi cách để tìm ra một cơ cấu khởi động nghịch đảo nhằm hóa giải tình trạng hôn mê. Chúng tôi đưa cha mẹ nó đến, bảo họ kêu tên nó thật to. Làm thế mấy ngày, chẳng có phản ứng gì cả. Chúng tôi thử mọi ngón trong sách dạy xử lý hôn mê – vỗ tay theo nhiều cách trước mặt nó. Chúng tôi mở những đĩa nhạc nó thích, đọc to những bài học của nó, cho nó ngửi món ăn ưa thích của nó. Thậm chí chúng tôi còn mang theo con mèo nó đặc biệt yêu quý đến. Chúng tôi dùng mọi phương pháp có thể nghĩ ra để đưa nó trở về thực tại, nhưng vẫn không đem lại kết quả.

Qua gần hai tuần đánh vật, khi chúng tôi đã cạn sáng kiến, mệt lử và nản chí, thì đùng một cái, thằng bé tự nó tỉnh dậy. Không phải do bất kỳ cái gì chúng tôi đã làm. Không hề báo trước, như thể thời điểm này đã được định sẵn, nó hồi tỉnh.

– Hôm ấy, có điều gì khác thường xảy ra không?

Chẳng có gì đáng kể. Đó là một ngày như mọi ngày khác. Vào lúc mười giờ sáng, cô y tá đến để lấy mẫu máu xét nghiệm. Ngay sau đó, nó hơi bị ngạt và một chút máu rớt trên ga giường. Chẳng mấy tí và người ta đã cho thay ga giường ngay. Đó có lẽ là điều khác thường duy nhất trong ngày hôm ấy. Khoảng nửa giờ sau đó thì thằng bé tỉnh dậy. Đùng một cái, nó ngồi nhổm dậy trên giường, vươn vai và nhìn quanh phòng. Nó đã trở lại trạng thái ý thức và hoàn toàn ổn về phương diện y học. Tuy nhiên, chúng tôi sớm nhận ra rằng nó đã hoàn toàn mất trí nhớ. Thậm chí nó không nhớ nổi tên mình. Nơi nó đã sống, ngôi trường của nó, mặt cha mẹ nó, tất cả đã bị xóa sạch trong đầu. Nó không còn biết đọc và thậm chí không có khái niệm gì về nước Nhật hay Trái Đất nữa. Nó đã trở về thế giới này với đầu óc sạch trơn. Như một tờ giấy trắng.

 

 

Chương 9

Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình nằm như một khúc gỗ trên đất ẩm giữa bụi rậm. Trời tối quá, tôi chẳng nhìn thấy gì.

Dựa đầu lên bụi mâm xôi tua tủa gai, tôi hít một hơi thật sâu và ngửi thấy mùi cây, mùi đất lẫn với mùi cứt chó khăm khẳm. Tôi nhìn thấy trời đêm qua những cành cây. Vắng trăng sao, nhưng trời sáng một cách kỳ lạ. Mây như tấm bình phong phản chiếu tất cả ánh sáng từ bên dưới. Xa xa, tiếng còi xe cấp cứu rền rĩ, lại gần hơn rồi nhỏ bặt dần. Lắng tai nghe thật kỹ, tôi có thể nhận ra tiếng bánh xe chạy rào rạo trên đường. Tôi đoán mình hẳn đang ở một chỗ nào đó trong thành phố.

Tôi cố tĩnh trí lại và gom lượm các mảnh của bản ngã tôi vương vãi khắp xung quanh như những miếng rời của một trò chơi ghép hình. Đây là lần đầu tiên mình ở trong hoàn cảnh thế này, tôi nghĩ. Hay là không phải? Tôi đã có cái cảm giác này ở đâu đó, trước đây. Nhưng vào thời điểm nào? Tôi lục lọi trí nhớ, nhưng sợi chỉ mỏng manh ấy liền đứt phựt. Tôi nhắm mắt lại và để mặc thời gian trôi qua.

Tôi giật nảy mình hoảng hốt khi chợt nhớ đến chiếc ba lô. Tôi đã để nó ở đâu nhỉ? Không thể để mất nó được: tất cả những gì tôi sở hữu đều ở trong đó. Nhưng làm sao tôi có thể tìm ra nó trong đêm tối? Tôi ráng đứng dậy, nhưng chân tay tôi đã kiệt lực, rã rời.

Tôi cố giơ bàn tay trái lên – sao đột nhiên nó lại nặng thế? – và gí chiếc đồng hồ vào sát mặt, dõi mắt vào nó thì đọc thấy: 23g26 ngày 28 tháng Năm. Tôi nghĩ đến cuối nhật ký của mình. 28 tháng Năm… tốt – vậy là tôi đã không mất ngày nào. Tôi đã không nằm đây lạnh lẽo nhiều ngày. Cùng lắm, tôi mới chỉ bất tỉnh mấy tiếng đồng hồ. Có thể độ bốn giờ, tôi đoán.

28 tháng Năm… một ngày như bất kỳ ngày nào khác, vẫn y xì cái thông lệ ấy, chẳng có gì bất thường. Tôi đến phòng tập thể dục, rồi đến Thư viện Komura. Tập trên các thiết bị như mọi khi, đọc Soseki vẫn trên chiếc ghế bành ấy. Ăn tối ở gần ga xe lửa, tôi còn nhớ là ăn cá hồi với xúp miso và sa-lát, hai lần xới cơm. Sau đó… sau đó, tôi không biết điều gì đã xảy ra.

Vai trái tôi hơi đau. Cảm giác hồi lại, cái đau cũng thức giấc. Chắc tôi đã đâm sầm vào một vật gì khá rắn. Tôi đưa tay phải xoa xoa chỗ đau. Không thấy vết thương hoặc sưng tấy gì. Có lẽ tôi bị đụng xe chăng? Nhưng quần áo tôi không bị rách và chỗ đau duy nhất là ở vai trái. Có lẽ chỉ là một vết bầm.

Tôi rờ rẫm quanh trong bụi rậm, nhưng chỉ thấy cành nhánh cứng đơ và cong queo như trái tim những con vật nhỏ bị hành hạ. Chẳng thấy ba lô nào cả. Tôi lục hết các túi quần. Đội ơn Chúa, ví hãy còn đây. Trong đó có chút tiền mặt, chìa khóa khách sạn, một thẻ điện thoại. Ngoài ra, tôi còn có một túi tiền xu, một mùi soa, một bút bi. Trong chừng mực tôi có thể nhận biết trong đêm tối, thì không thiếu gì cả. Tôi đang mặc một chiếc quần vải bông màu kem, một chiếc áo phông trắng cổ chữ V bên trong một chiếc sơ mi bò dài tay cộng thêm đôi giày Topsiders màu xanh nước biển. Riêng chiếc mũ bóng chày mang tên đội New York Yankees đã biến mất. Tôi nhớ là có đội nó khi ra khỏi khách sạn, nhưng bây giờ thì không. Chắc tôi đã đánh rơi nó hoặc để quên ở chỗ nào đó. Không quan trọng lắm. Thứ này một đồng một tá, mua đâu chả có.

Cuối cùng, tôi cũng tìm thấy cái ba lô của mình. Nó dựa vào một thân cây thông. Quái quỷ làm sao mà tôi lại để nó đấy rồi đâm đầu gục ngã trong cái bụi rậm này? Tôi đang ở cái chỗ quái ỷ nào đây? Trí nhớ của tôi đông cứng lại rồi. Dù sao, điều quan trọng là tôi đã tìm thấy nó. Tôi lấy chiếc đèn pin mini ở túi cạnh ra soi để kiểm tra bên trong. Xem ra không thiếu gì cả. Đội ơn Chúa, toàn bộ tiền của tôi ở trong đó cả.

Tôi khoác ba lô lên vai và bước khỏi bụi rậm, gạt những cành nhánh chắn lối, cho đến khi ra tới một chỗ quang hơn. Ở đây có một con đường nhỏ và tôi cứ theo vệt sáng của cây đèn pin đến một khoảng có chút ánh sáng. Đó có vẻ là khuôn viên của một miếu đường Shinto. Thì ra tôi đã bị ngất trong một cánh rừng nhỏ đằng sau tòa chính của miếu đường.

Một ngọn đèn thủy ngân trên một cây cột cao soi sáng cả khu miếu đường rộng, rọi một thứ ánh sáng lạnh lẽo lên hòm đựng đồ cúng tế cùng các bài vị bên trong miếu đường. Bóng tôi trên lớp sỏi nom dài đến độ quái dị. Tôi thấy tên của miếu đường trên một bảng tin và ghi nó vào trong bộ nhớ. Không có ai khác ở quanh đây. Thấy một phòng vệ sinh gần đó, tôi bước vào; hóa ra nó khá sạch. Tôi cởi ba lô và rửa mặt, rồi kiểm tra hình ảnh của mình phản chiếu trên tấm gương mờ xỉn bên trên bồn rửa mặt. Tôi chờ đợi thấy mình xấu xí nhất và tôi đã không thất vọng – nom tôi thật gớm ghiếc. Một bộ mặt tái nhợt với đôi má hóp đang trừng trừng nhìn lại tôi, cổ đầy bùn, tóc tua tủa chĩa ra khắp phía.

Tôi chợt nhận thấy một cái gì đen đen phía trước áo phông của tôi, tựa như con bướm lớn xòe cánh. Tôi phủi nó đi nhưng nó vẫn bám chặt. Tôi sờ vào nó, thấy tay mình dính nhớp. Tôi cần phải bình tĩnh lại, cho những tôi cố tình dềnh dàng, chậm rãi cởi cả hai chiếc áo đang mặc. Dưới ánh đèn nêông, tôi nhận ra đó là một vết máu – khá nhiều máu còn tươi và ướt, nhưng đã đen lại khi thấm vào vải. Tôi đưa lên mũi ngửi, nhưng nó không có mùi gì. Máu cũng vấy sang cả áo sơ mi bò, nhưng ít thôi và không lộ rõ trên nền vải xanh thẫm. Vệt máu trên áo phông thì khác – rõ mồn một trên nền trắng, không thể lầm lẫn được.

Tôi giặt chiếc áo phông ở bồn rửa mặt. Máu hòa vào nước, nhuộm đỏ chất sứ của bồn. Mặc dù tôi ra sức vò, vết hoen vẫn không đi. Tôi đã toan quẳng chiếc áo phông vào thùng rác, song lại thôi. Nếu phải vứt bỏ thì nên tìm chỗ khác tốt hơn. Tôi vắt kiệt rồi nhét nó vào một túi ni lông cùng với những đồ đã giặt, và tống tất cả vào ba lô. Tôi dấp nước lên tóc, gỡ cho khỏi quá bù rối. Rồi lấy xà phòng trong túi đựng đồ vệ sinh ra, rửa tay. Tay vẫn còn hơi run, nhưng tôi cứ nhẩn nha, rửa thật kỹ các kẽ ngón và dưới móng. Tôi lấy khăn ướt chùi sạch chỗ máu thấm vào ngực. Rồi mặc chiếc sơ mi bò vào, cài cúc đến tận cổ, nhét vạt vào trong quần cẩn thận.

Tôi không muốn người ta nhìn mình nên phải chỉnh trang lại, ít ra nom cũng gần như bình thường.

Nhưng tôi vẫn sợ chết khiếp, răng vẫn đánh đàn. Dù cố hết sức, tôi cũng không sao kìm được. Tôi xòe tay ra nhìn. Cả hai tay đều hơi run, nom như tay người khác chứ không phải tay mình. Như hai con thú nhỏ có đời sống độc lập. Gan bàn tay nhoi nhói như vừa nắm phải một thanh sắt nóng.

Tôi tì hai tay lên thành bồn rửa mặt, ngả người về phía trước, áp đầu vào gương. Tôi cảm thấy muốn khóc, nhưng cho dù tôi có khóc, cũng sẽ chẳng có ai đến cứu tôi. Chẳng có ai…

Chà, làm sao cậu dính đầy máu trên người thế? Cậu làm cái quái quỷ gì vậy? Nhưng mà cậu chả nhớ gì sất, đúng không. Tuy nhiên, trên người cậu không có vết thương nào, thế cũng đỡ. Cũng không đau đớn gì thực sự – trừ chỗ nhói buốt ở vai trái. Vậy chắc là máu của ai khác, chứ không phải của cậu. Máu của một người nào khác.

Dù sao chăng nữa, cậu cũng không thể ở lại đây mãi. Nếu như tình cờ một chiếc xe tuần tra phát hiện ra cậu ở đây, người đầy máu, thì rắc rối to đấy, bạn trẻ ạ. Cố nhiên, quay về khách sạn có thể không phải là một ý hay. Biết đâu chả có người đã rình sẵn ở đấy, sẵn sàng chộp cậu. Thận trọng mấy cũng không thừa. Có vẻ như cậu bị dính vào một tội ác nào đó, một vụ gì mà cậu không nhớ nổi. Có khi chính cậu là thủ phạm cũng nên. Biết đâu đấy?

May sao, cậu vẫn còn tất cả đồ đạc bên mình. Cậu đã khá cẩn thận, luôn luôn tha mọi thứ mình sở hữu theo trong cái ba lô nặng như cối đá này. Thế là tốt. Cậu đã làm những gì cần làm, không việc gì phải áy náy. Đừng sợ. Mọi thứ rồi sẽ ổn thôi. Nên nhớ: cậu là trang thiếu niên mười lăm tuổi kiên cường nhất hành tinh, đúng không nào? Hãy tự chủ! Hít mấy hơi thật sâu và vận dụng trí não đi. Mọi sự sẽ tốt đẹp. Nhưng cậu phải rất cẩn thận đấy. Chúng ta vừa nói đến máu, máu thật chứ chẳng chơi đâu, máu của một người khác. Mà không phải là một vài giọt. Biết đâu trong khi chúng ta đang nói chuyện đây, người ta đang truy lùng cậu cũng nên.

Tốt nhất là lên đường đi. Chỉ có một việc duy nhất cần làm, một nơi duy nhất cần đến. Và cậu biết đó là nơi nào.

Tôi hít vài hơi thật sâu để trấn tĩnh lại, rồi xách ba lô, ra khỏi phòng vệ sinh. Dưới ánh đèn thủy ngân, tôi giẫm trên sỏi lạo xạo, cố khởi động bộ não. Bật công tắc, vặn tay quay cho suy nghĩ vào guồng. Nhưng nó không chịu chạy – ắc-quy không đủ điện để phát động mô-tơ. Tôi cần một nơi nào ấm áp và an toàn để trốn tạm và tĩnh trí lại. Nhưng nơi nào? Nơi duy nhất tôi có thể nghĩ ra là thư viện. Nhưng Thư viện Komura lại đóng cửa cho đến mười một giờ trưa mai, và tôi cần có chỗ để ẩn náu cho đến lúc đó.

Tôi đi đến một phương án. Tôi ngồi xuống một chỗ kín và lấy chiếc điện thoại di động trong ba lô ra. Kiểm tra thấy nó vẫn kết nối với tổng đài trung tâm, tôi lục ví tìm số điện thoại của Sakura rồi bấm số. Ngón tay tôi vẫn còn lóng ngóng nên phải mất mấy lần mới bấm đúng và đầy đủ số. Đội ơn Chúa, cô không để máy trả lời tự động. Sau mười hai hồi chuông, cô cầm máy. Tôi xưng tên.

“Kafka Tamura,” cô nhắc lại, không phấn khởi gì cho lắm. “Cậu có biết bây giờ là mấy giờ khuya rồi không? Mai mình lại phải dậy rất sớm.”

“Tôi biết, tôi xin lỗi đã gọi muộn thế,” tôi nói, giọng căng thẳng. “Nhưng tôi không có lựa chọn nào khác. Tôi đang gặp rắc rối và chị là người duy nhất tôi có thể nghĩ tới.”

Đầu dây đằng kia không thấy trả lời. Hình như cô đang phân tích, cân nhắc giọng nói của tôi trong ý nghĩ.

“Chuyện có… nghiêm trọng không?” cuối cùng, cô hỏi.

“Tôi chưa thể nói chắc được, nhưng tôi nghĩ đó là chuyện nghiêm trọng đấy. Chị phải giúp tôi. Chỉ một lần này thôi. Tôi xin hứa sẽ không quấy rầy chị lâu.”

Cô nghĩ một lúc. Không, không phải là cô do dự hay thế nào đâu, cô chỉ suy nghĩ thôi. “Vậy cậu đang ở đâu?”

Tôi nói tên của miếu đường.

“Có phải ở thành phố Takamatsu không?”

“Tôi không dám cô hắc hoàn toàn, nhưng tôi nghĩ thế.”

“Thậm chí cậu không biết mình đang ở đâu?” cô sửng sốt hỏi.

“Đây là một câu chuyện dài.”

Cô buông một tiếng thở dài. “Cậu hãy bắt taxi, đến cửa hàng Lawson. Nó ở góc phố gần chung cư mình đang ở, có treo biển rất to, không thể lọt khỏi mắt được.” Cô chỉ hướng cho tôi. “Cậu có tiền đi taxi chứ?”

“Có,” tôi nói.

“Tốt,” cô nói và gác máy.

Tôi ra khỏi cái cổng rách nát của miếu đường và đi về phía đường cái để vẫy taxi. Cũng không phải chờ lâu. Tôi hỏi người lái có biết cửa hàng Lawson ở đâu không và anh ta nói có. Hỏi có xa không, anh ta bảo chỉ một cuốc xe mười “đô” thôi.

Xe đậu bên ngoài cửa hàng Lawson. Tôi trả tiền người lái xe, tay vẫn chưa hết run. Tôi khoác ba lô vào trong cửa hàng. Tôi khẩn trương đến nỗi Sakura còn chưa kịp tới. Tôi mua một bịch sữa, hâm nóng lên trong lò vi ba và chậm rãi nhấp từng ngụm. Sữa nóng trôi qua cuống họng, làm dịu dạ dày tôi đôi chút. Khi tôi bước vào cửa hàng, người gác gườm gườm nhìn cái ba lô của tôi, cảnh giác đề phòng bọn giả làm khách hàng để ăn cắp đồ, rồi sau đó chẳng ai chú ý đến tôi nữa. Tôi đứng ở ngăn báo, tạp chí, giả vờ chọn, kỳ thực để rà soát lại hình ảnh mình phản chiếu trên tủ kính. Tuy đầu óc tôi hãy còn hơi bù rối, nhưng khó ai có thể nhận ra vết máu trên chiếc sơ mi bò. Mà ví dụ có ai để ý thấy, chắc họ cũng nghĩ đó chỉ là một vết vấy bẩn. Lúc này, chỉ cần tôi đừng run nữa.

Mười phút sau, Sakura tới. Đã gần một giờ sáng. Cô mặc áo choàng dài tay và quần jeans bạc màu. Tóc đuôi ngựa, mũ lưỡi trai New Balance màu xanh nước biển. Vừa thấy cô, răng tôi hết đánh đàn. Cô tiến đến bên tôi và nhìn tôi từ đầu đến chân như xem xét hàm răng một con chó mà cô định mua vậy. Cô thốt ra một âm thanh nửa như thở dài nửa như rên rẩm, rồi khẽ vỗ vai tôi hai cái. “Đi nào,” cô nói.

Căn hộ của cô ở cách cửa hàng Lawson hai khối nhà. Một ngôi nhà hai tầng tồi tàn. Cô lên cầu thang, lấy chìa khóa trong túi, mở cánh cửa gỗ màu xanh lá mạ. Căn hộ gồm hai phòng cộng với bếp và buồng tắm. Tường mỏng, sàn kêu cót két và có lẽ ánh sáng tự nhiên duy nhất nơi này có được vào ban ngày là khi nắng quái chiều hôm rọi vào. Tôi nghe thấy tiếng xả nước ở một căn hộ khác, tiếng đóng cửa tủ kèn kẹt đâu đó. Xoàng xinh, nhưng ít ra cũng đem lại cảm giác là có những con người thật đang sống những cuộc sống thật. Bát đĩa chồng đống trong bồn rửa ở bếp, những chai nhựa không, những số họa báo đọc dở, những đóa hoa tuy líp tàn úa, một bảng kê những thứ cần mua sắm dán trên tủ lạnh, những chiếc tất dài vắt trên thành ghế, một tờ báo trên bàn giở ra ở trang chương trình tivi, một cái gạt tàn, một hộp thuốc lá điếu mảnh Virginia Slims. Vì một lý do kỳ lạ, cái cảnh này lại làm tôi thư giãn.

“Đây là căn hộ của con bạn mình,” cô giải thích. Trước nó cùng làm với mình trong một salon ở Tokyo, nhưng năm ngoái nó phải trở về Takamatsu, quê nó. Thế rồi nó bảo nó muốn đi du lịch Ấn Độ một tháng và nhờ mình đến trông nhà hộ. Mình làm thay công việc của nó trong khi nó đi vắng. Nó cũng là thợ uốn tóc. Mình nghĩ đây là một dịp tốt để thay đổi không khí, ra khỏi Tokyo một thời gian. Nó thuộc loại New Age, nên mình ngờ là nó sẽ không chỉ ở lại Ấn Độ có một tháng thôi đâu.”

Cô bảo tôi ngồi vào bàn ăn và mang cho tôi một lon Pepsi lấy từ tủ lạnh, không kèm theo cốc. Bình thường, tôi không uống loại này: quá ngọt và hại răng. Nhưng tôi đang chết khát, nên nốc cạn cả lon.

“Cậu muốn ăn gì không? Mình chỉ có mì ăn liền, có được không?”

“Tôi không đói,” tôi nói.

“Trông sắc diện cậu thật khiếp, cậu biết không?”

Tôi gật đầu.

“Vậy đã xảy ra chuyện gì?”

“Giá mà tôi biết được!”

“Cậu không có ý niệm gì về điều đã xảy ra. Cậu thậm chí không biết mình đã ở đâu. Và đó là một câu chuyện dài,” cô nói, liệt kê gọn các dữ liệu. “Nhưng rành là cậu đang gặp rắc rối.”

“Rành là thế,” tôi đáp. Tôi hy vọng là chí ít cô cũng tin vậy.

Im lặng. Trong khi đó, cô cau mày nhìn tôi chằm chằm. “Cậu thực sự không có bà con họ hàng ở Takamatsu, phải không? Cậu trốn nhà đi hoang.”

Tôi lại gật đầu.

“Một lần, hồi bằng tuổi cậu, mình đã trốn khỏi nhà. Mình nghĩ mình hiểu những gì cậu đang trải qua. Vì thế mình mới cho cậu số điện thoại di động của mình. Mình nghĩ có thể cậu cần nó.”

“Thành thực cám ơn chị,” tôi nói.

“Gia đình mình ở Ichikawa thuộc tỉnh Chiba. Mình xung khắc với cha mẹ và không thích đi học, nên mình lấy trộm của gia đình một số tiền và bỏ trốn, cố đi thật xa. Hồi ấy mình mười sáu tuổi. Mình đến tận Abashiri, trên mạn Hokkaido ấy. Mình tạt vào một cái trạm tình cờ trên đường, xin làm việc ở đó. Mình sẽ làm bất cứ việc gì – mình nói với họ thế – và mình sẽ làm hết sức, không cần trả lương chừng nào họ cho mình ăn đầy đủ và một mái nhà che đầu. Bà chủ ở đó nhã nhặn mời mình ngồi dùng trà. Em chờ đây một chút nhé, bà nói vậy. Điều tiếp theo mình kịp nhận ra là một chiếc xe tuần tra xịch đến và cảnh sát lôi mình về nhà. Đó không phải là lần đầu bà chủ trại gặp chuyện như thế này. Bấy giờ mình mới nảy ra ý nghĩ là phải học một nghề gì đó, để rồi đây dù đi đến đâu cũng có thể kiếm được việc làm. Thế là mình bỏ trường trung học, chuyển sang một trường học nghề và trở thành thợ uốn tóc.” Cô nhếch mép, khẽ mỉm cười. “Cậu có thấy đó là một cách lành mạnh để tiếp cận sự đời không?”

Tôi đồng ý với cô.

“Này, cậu có muốn kể cho mình nghe đầu đuôi câu chuyện không?” cô vừa nói vừa châm một điếu thuốc lá. “Đằng nào đêm nay mình cũng chả ngủ được mấy nữa, cho nên mình sẵn sàng nghe hết.”

Tôi giải thích tất cả cho cô nghe, từ lúc bỏ nhà đi. Tuy nhiên, tôi bỏ qua phần liên quan đến điềm báo. Điều đó, tôi không thể kể cho bất kỳ ai, tôi biết thế.

 

 

Chương 10

“Vậy thì nếu Nakata này gọi cậu là Kawamura thì có được không?” Lão nhắc lại câu hỏi với mèo nâu vằn, phát âm chậm rãi, cố hết sức làm cho lời mình nói thật dễ hiểu.

Chú mèo này đã nói với lão là hình như chú đã bắt gặp Goma, con mèo cái mai rùa một tuổi bị lạc, ở quanh vùng này. Nhưng theo quan điểm của Nakata thì cách nói của chú rất kỳ. Cảm giác này là chung cho cả hai vì mèo ta dường như cũng chẳng hiểu lão mấy. Cuộc trò chuyện thành ra ông nói gà bà nói vịt.

“Tôi không phản đối, cái đầu cao nhất.”

“Xin lỗi, nhưng Nakata này không hiểu cậu nói gì. Cậu bỏ quá cho, Nakata này không được sáng dạ cho lắm.”

“Toàn là cá ngừ, từ đến cuối.”

“Cậu nói cậu muốn ăn cá ngừ chăng?”

“Không. Hai tay bị trói trước.”

Nakata không bao giờ hy vọng có thể truyền đạt mọi điều một cách dễ dàng trong những cuộc trò chuyện với loài mèo như thế này. Cần phải dự kiến trước một số vấn đề khi mèo và người nói chuyện với nhau. Và còn có một nhân tố khác cần xem xét: chính cách nói năng của Nakata cũng có vấn đề – không chỉ với mèo mà cả với người nữa. Cuộc trò chuyện dễ dàng của lão với Otsuka tuần trước là một ngoại lệ chứ không phải thông lệ, vì truyền đạt một thông điệp, dù đơn giản, bao giờ cũng đòi hỏi rất nhiều cố gắng. Vào những ngày không thuận lợi thì cứ như hai người đứng hai bên bờ sông gào lên với nhau trong tiếng gió rít vậy. Và hôm nay cũng là một ngày như vậy.

Lão không biết tại sao, nhưng bắt trúng sóng của mèo nâu vằn là khó nhất. Với mèo đen đa phần là trôi chảy. Dễ nhất là giao tiếp với mèo Xiêm, nhưng khốn thay lại chẳng có mấy mèo Xiêm lang thang ngoài phố, cho nên hiếm khi gặp được. Mèo Xiêm thường được nâng niu chăm bẵm trong nhà. Và vì một lý do nào đó, mèo nâu vằn chiếm đa số trong đám đi hoang.

Ngay cả đã biết trước, Nakata vẫn thấy Kawamura là bất khả giải mã. Chú phát âm không rõ, khiến Nakata không sao nắm bắt được nghĩa của từng từ cũng như tương quan giữa các từ. những gì chú thốt ra nghe giống câu đố hơn là câu nói đích thực. tuy nhiên, Nakata cực kỳ kiên nhẫn, lại có thừa thời gian. Lão nhắc đi nhắc lại cùng một câu hỏi, khiến mèo ta phải nhắc lại câu trả lời nhiều lần. cả hai ngồi trên bức tường đá thấp rào quanh một công viên nhỏ dành cho thiếu nhi trong một khu dân cư. Họ đã nói chuyện với nhau gần một tiếng đồng hồ, cứ loanh quanh luẩn quẩn trong mớ bòng bong.

Kawamura chỉ là cái tên lão đặt ra để gọi cậu cho tiện, chứ chẳng có nghĩa gì cả… Nakata này đặt tên cho mỗi cô cậu mèo cho dễ nhớ thôi. Lão đảm bảo nó sẽ không gây phiền phức gì cho cậu. Lão chỉ thích gọi cậu như thế, nếu cậu không phản đối.”

Kawamura đáp lại bằng những tiếng lầm bầm không ai hiểu nổi. Thấy tình hình này khó mà sớm chấm dứt, Nakata quyết định chuyển hướng bằng cách đưa cho Kawamura xem tấm hình con Goma một lần nữa.

“Cậu Kawamura, đây là Goma, con mèo mà Nakata này đang tìm. Một con mèo mai rùa một tuổi. Chủ của nó là ông bà Koizumi ở khối nhà 3. Nogata. Nó biến mất tăm một thôi rồi. Bà Koizumi mở cửa sổ, thế là nó nhảy vọt ra ngoài, chạy mất. Vậy một lần nữa, lão xin hỏi cậu, cậu có trông thấy nó không?”

Kawamura lại nhìn bức ảnh và gật đầu.

“Nếu là cá ngừ, Kwa’mura trói. Trói chặt, cố tìm ra.”

“Xin lỗi, nhưng như lão vừa nói lúc nãy, Nakata này không sáng dạ cho lắm, nên không hiểu rõ cậu nhằm chỉ cái gì. Xin cậu vui lòng nhắc lại.”

“Nếu là cá ngừ, Kwa’mura cố. Cố tìm ra và trói chặt nó lại.”

“Cậu nói cá ngừ theo đúng nghĩa là cá chứ?”

“Thử cá ngừ, trói nó, Kwa’mura.”

Nakata vò mái tóc muối tiêu húi cua, ngẫm nghĩ. Làm thế nào để giải câu đố cá ngừ này và thoát ra khỏi cuộc trò chuyện rắm rối như mớ bòng bong này? Nhưng tha hồ cho lão vắt óc, vẫn không ra manh mối nào. Nói cho cùng, suy nghĩ theo lô-gích không phải là sở trường của lão. Hoàn toàn dửng dưng với thế bí của lão, Kawamura nhấc một chân sau lên gãi cằm sồn sột.

Đúng lúc ấy, Nakata có tiếng cười khe khẽ sau lưng. Lão ngoảnh lại và trông thấy một mèo Xiêm thon thả, kiều diễm, ngồi trên một bức tường bê tông thấp tè cạnh một ngôi nhà, đang him mắt nhìn lão.

“Xin lỗi, chẳng hay có phải bác Nakata đấy không? Mèo Xiêm ỏn ẻn hỏi.

“Phải, chính thế. Tên lão là Nakata. Rất hân hạnh.”

“Rất hân hạnh,” mèo Xiêm đáp.

“Từ sáng nay trời đã đầy mây, nhưng lão không nghĩ là sắp mưa,” Nakata nói.

“Hy vọng là sẽ không mưa.”

Đó là một nàng mèo Xiêm xấp xỉ trung niên. Cô nàng kiêu hãnh dựng thẳng đuôi lên và phô một vòng cổ có gắn thẻ ghi tên. Nét mặt dễ thương, người thon thả, không một chút mỡ thừa.

“Xin gọi em là Mimi. Mimi trong bài Cô gái Bô-hê-miêng ấy. Có một bài hát về em mà. Si, Mi Chiamano Mimi.”

“Ra thế,” Nakata nói, thật ra chẳng hiểu gì.

“Một vở nhạc kịch của Puccini. Ông chủ em rất mê nhạc kịch,” Mimi nói với một nụ cười khả ái. “Em những muốn hát bài đó cho bác nghe, nhưng tiếc thay, giọng em lại quá dở.”

“Nakata này rất sung sướng được gặp cô, Mimi-san 1.”

“Em cũng thế, thưa bác Nakata.”

“Cô ở gần đây?”

“Vâng, ở ngôi nhà hai tầng đằng kia kìa. Nhà ông bà Tanabe. Bác trông thấy chứ? Ngôi nhà có chiếc BMW530 màu kem đậu trước cửa ấy.”

“Ra thế,” Nakata lặp lại. Lão chẳng biết BMW là gì, nhưng lão có thấy một cái ô-tô màu kem. Chắc Mimi định nói cái ấy.

“Bác Nakata,” Mimi nói, “em thuộc loại mèo tự chủ, hay có thể nói là rất thích sự riêng tư, nên bình thường em không can thiệp vào chuyện của người khác. Nhưng cái thằng nhỏ kia – cái thằng mà hình như bác gọi là Kawamura ấy? – không phải là đứa thông minh sáng láng gì. Tội nghiệp, dạo bé nó bị xe đạp cán, va đầu vào bê-tông. Từ đó trở đi nó đâm ngớ ngẩn. Thành thử, dù bác có kiên nhẫn đến mấy với nó (như em đã thấy thế), bác cũng chả đi tới đâu. Em đã quan sát một lúc và em nghĩ mình không thể chỉ ngồi suông. Em biết thế này là đường đột, nhưng em cần phải nói đôi điều.”

“Không, xin cô đừng nghĩ thế. Lão rất mừng được cô chỉ giáo. Nakata này cũng đần độn như Kawamura và không thể nên cơm cháo gì nếu không được người khác giúp đỡ. Vì thế nên lão mới được ngài Tỉnh trưởng chợ cấp hàng tháng. Nên lão rất mừng được nghe ý kiến của cô, Mimi-san ạ.”

“Em hiểu là bác đang tìm một con mèo,” Mimi nói. “Xin bác lưu ý, em không nghe trộm đâu, nhưng tình cờ nó lọt vào tai em trong khi em ngủ trưa ở đây. Bác nói tên nó là Goma?”

“Phải, chính xác thế.”

“Và Kawamura đã trông thấy Goma?”

“Là nó nói với lão thế. Nhưng rồi sau đó, nó nói gì lão chả hiểu.”

“Bác Nakata, nếu bác không phiền, em sẽ vào cuộc và thử nói chuyện với nó. Hai mèo giao lưu với nhau vẫn dễ hơn, mà em lại rất quen với cách nói của nó. Vậy hãy để em thăm dò nó, moi thông tin, rồi sẽ tóm tắt bác nghe.”

“Thế thì được việc quá.”

Mèo Xiêm khẽ gật đầu, rồi như một vũ nữ ba-lê, nhẹ nhàng nhảy từ bức tường bê-tông xuống. Cái đuôi đen dựng đứng như cái cột cờ, cô nàng thong dong bước tới, ngồi cạnh Kawamura. Nó lập tức hít hà mông Mimi, nhưng nàng mèo Xiêm vả ngay cho nó một cái vào mõm, làm mèo nhóc lùi lại. Không để nó kịp thở, Mimi bồi thêm một cú nữa vào giữa mũi.

“Giờ thì chú ý nghe cho kỹ nhé, đồ óc bã đậu thối tha!” Mimi rít lên, rồi quay lại phía Nakata như để phân bua. “Phải cho nó biết đâu là người trên kẻ dưới, kẻo sẽ chẳng bao giờ đi đến đâu. Nếu không, nó sẽ ú ớ suốt và bác sẽ chỉ nghe toàn những thứ nhăng cuội. Tình trạng này không phải lỗi tại nó, và em cũng ái ngại cho nó, nhưng biết làm thế nào?”

“Lão hiểu,” Nakata nói, mà không dám chắc mình hiểu cái gì.

Hai con mèo bắt đầu trò chuyện, nhưng chúng nói nhanh và lí nhí đến nỗi Nakata không nắm bắt được tí gì. Mimi cật vấn Kawamura bằng một giọng gay gắt, con mèo nhóc trả lời một cách rụt rè, mỗi lần ngập ngừng lại ăn một cái tát không thương xót vào mặt. Cô nàng mèo Xiêm này vừa thông minh vừa có học vấn. Cho đến nay, Nakata đã gặp rất nhiều mèo, nhưng chưa từng thấy con nào biết thưởng thức nhạc kịch và thông thạo các mô-đen xe hơi. Kính nể, lão theo dõi Mimi tiến hành cuộc điều tra một cách khẩn trương, đầu hiệu quả.

Nghe xong mọi thứ, Mimi đuổi chú mèo nhóc đi. “Xéo!” cô nàng quát và nó cun cút lủi mất.

Mimi thân ái sà vào nằm gọn trong lòng Nakata. “Em nghĩ là đã nắm được cốt lõi vấn đề.”

“Đa tạ,” Nakata nói.

“Con mèo này – tức Kawamura – nói nó đã trông thấy Goma mấy lần ở một bãi cỏ ngay cuối con đường này. Đó là một bãi đất trống, người ta định xây nhà trên đó. Một hãng kinh doanh bất động sản đã mua cái xưởng phụ tùng của một công ty xe hơi, phá bỏ đi để xây dựng một chung cư cao cấp thế vào. Một phong trào của cư dân trong khu đã phản đối dự án này, cuộc chiến pháp lý nổ ra và việc xây dựng phải đình lại. Thời buổi này chuyện như thế xảy ra thường xuyên. Nơi này cỏ mọc um tùm và chẳng mấy người lai vãng, nên trở thành nơi trú ngụ lý tưởng cho tất cả bọn mèo đi hoang trong vùng. Em chả giao du nhiều, em không muốn lây rận, nên chả mấy khi đến đấy. Chắc bác cũng biết, rận cũng giống như thói quen, một khi mắc phải thì khó mà rũ bỏ được.”

“Lão hiểu,” Nakata nói.

“Nó bảo em là con kia giống con trong ảnh: một con mai rùa bé xinh, nhút nhát, đeo đai cổ chống rận. nó cũng không thạo nói. Rõ ràng đó là một con mèo nhà ngây ngô không tìm ra đường về nhà.”

“Không biết đó là hôm nào nhỉ?”

“Lần gần đây nhất Kawamura thấy nó là cách đây ba hay bốn hôm. Nó chẳng sáng dạ gì, thậm chí không biết ngày thứ mấy nhưng nó nói đó là sau hôm mưa, nên em nghĩ chắc là thứ Hai. Em nhớ là hôm Chủ nhật mưa rất to mà.”

“Nakata này cũng không thông thạo các ngày trong tuần, nhưng cũng nghĩ trời đã đổ mưa vào quãng ấy. Kể từ đó Kawamura không thấy nó nữa ư?”

“Đó là lần cuối cùng. Những con mèo khác cũng không thấy nó nữa, Kawamura nói thế. Tuy nó đần độn, vô tích sự, nhưng em đã dồn ép nó ráo riết và em tin phần lớn những điều nó nói.”

“Lão thành thực cảm ơn cô.”

“Có gì đâu, chính em cảm thấy hài lòng. Phần lớn thời gian em chỉ có lũ mèo ẩm ương quanh đây để chuyện trò, chẳng có gì là tâm đầu ý hợp cả. Bực hết chỗ nói. Cho nên được nói chuyện với một con người khôn ngoan như bác, giống như đang oi nồng bỗng được một luồng khí mát vậy.”

“Lão hiểu,” Nakata nói. “Có một điều Nakata này chưa rõ lắm. cậu Kawamura cứ luôn miệng nhắc đến cá ngừ, không biết có nhằm chỉ đích thị con cá ấy không?”

Mimi uyển chuyển nhấc chân trước bên trái lên, xem xét kỹ lòng bàn chân hồng hồng và cười khúc khích. “Em nghĩ từ vựng của cái thằng nhóc này chẳng giàu có gì cho lắm.”

Từ vựng ư?”

“Em muốn nói số từ nó biết rất hạn chế. Cho nên đối với nó, bất cứ cái gì ăn ngon miệng đều là cá ngừ. Đối với nó, cá ngừ là tinh hoa của tinh hoa trong lĩnh vực thức ăn. Nó đâu có biết là còn có những thứ như cá tráp, cá bơn lưỡi ngựa, cá đuôi vàng.”

Nakata hắng giọng. “Thực ra Nakata này cũng rất khoái món cá ngừ. Cố nhiên, lão thích cả lươn nữa.”

“Em cũng khoái ăn lươn. Tuy đó không phải là thứ ngày nào cũng có mà ăn.”

“Đúng thế. Không phải ngày nào cũng có lươn mà ăn.”

Rồi cả hai im lặng một lúc, đắm trong những tơ tưởng về lươn.

“Dù sao đi nữa, điều Kawamura muốn nói là thế này,” Mimi nói, như chợt nhớ ra. “Không lâu sau khi lũ mèo hoang trong khu bắt đầu chọn bãi đất trống này làm chỗ trú chân, một người xấu chuyên bắt mèo xuất hiện. Đám mèo khác cho rằng người này đã bắt Goma mang đi. Y kiếm thức ăn ngon nhử bọn chúng, rồi bỏ chúng vào một cái bị lớn. Người này bắt mèo rất thiện nghệ và một con mèo ngây thơ, đói ăn như con Goma rất dễ rơi vào bẫy của y. Ngay cả đám mèo hoang sống quanh đây, vốn rất thận trọng, cũng mất vài mống vào tay y. Thật gớm ghiếc, vì đối với một con mèo, không gì khốn khổ hơn là bị nhét vào trong một cái bị.”

“Lão hiểu,” Nakata nói và một lần nữa lại đưa tay lên vò mái tóc muối tiêu. “Nhưng cái gã ấy nó làm gì với những con mèo sau khi bắt chúng?”

“Cái ấy thì em không biết. Dạo xưa, người ta thường lấy da mèo làm dây đàn shamisen, nhưng ngày nay không có nhiều người chơi shamisen nữa. Với lại, em nghe nói bây giờ người ta chủ yếu dùng dây bằng plastic. Ở một số nơi trên thế giới, người ta ăn thịt mèo, tuy nhiên, đội ơn Chúa, ở Nhật Bản thì không. Cho nên em nghĩ ta có thể loại trừ cả hai khả năng ấy. Còn lại… Để em xem… Mèo còn được dùng trong những thí nghiệm khoa học. Số này khá nhiều đấy. Thực tế, một con bạn em đã bị đưa vào một cuộc thử nghiệm tâm lý ở trường Đại Học Tokyo. Một sự khủng khiếp, nhưng đó là một câu chuyện dài, lúc này em không muốn kể. Lại còn có những kẻ bệnh hoạn thích hành hạ mèo, chẳng hạn như bắt mèo rồi chặt đứt đuôi, coi đó là một thú vui, số này không nhiều, nhưng cũng phải tính đến.”

“Sau khi chặt đuôi mèo, họ làm gì?”

“Chẳng gì nữa hết. họ chỉ muốn hành hạ mèo và làm đau chúng, thế thôi. Vì một lý do nào đó, họ cảm thấy dễ chịu khi làm thế. Trên đời có những kẻ quái đản như thế đấy.”

Nakata ngẫm nghĩ một lúc. Làm sao mà chặt đuôi một con mèo lại có thể là một thú vui được? “Vậy cô nói rằng có thể một trong số những con người quái đản ấy đã bắt Goma đi?” lão hỏi.

Mimi cau mày, bộ ria mép dài trắng xoắn lên. “Em đâu có muốn nghĩ thế, nhưng đó là một khả năng. Bác Nakata, em sống chưa được bao năm, nhưng em đã thấy những điều kinh khủng không tưởng tượng nổi. Nhiều người nhìn bề ngoài tưởng đời sống của mèo là tuyệt vời – suốt ngày nằm dài tắm nắng, chẳng phải động chân nhấc tay làm một việc gì. Nhưng đời sống của mèo đâu có thơ mộng thế. Loài mèo là những sinh vật nhỏ bé, yếu đuối, dễ bị tổn thương. Chúng tôi không có mai cứng như rùa, không có cánh như chim. Chúng tôi không biết đào sâu vào lòng đất như chuột chũi, không đổi được màu như tắc kè hoa. Thiên hạ không hề biết mỗi ngày có bao nhiêu mèo bị thương hoặc chết thảm chết thê. Em may mắn được sống với ông bà Tanabe trong một gia đình ấm cúng và thân ái, lũ trẻ đối xử tốt với em và em có mọi thứ em cần. Nhưng ngay cả như thế, đời sống của em không phải lúc nào cũng dễ dàng. Còn bọn mèo hoang thì thật là khốn khổ.”

“Mimi, cô thật là thông minh,” Nakata nói, thán phục tài hùng biện của nàng mèo Xiêm.

“Không, không đâu,” Mimi đáp, nheo mắt lại bối rối. “Chỉ là em suốt ngày nằm dài trước tivi và kết quả là thế này: đầu em trở nên đầy những kiến thức vô bổ. Bác Nakata, bác có bao giờ xem tivi không?”

“Không, Nakata này không xem tivi. Những người trên tivi nói quá nhanh, lão không nghe kịp. Lão đần, không biết đọc mà đã không biết đọc thì tivi chả có mấy ý nghĩa. Thi thoảng lão cũng nghe đài, nhưng đài nói cũng quá nhanh, làm lão mệt. Không, lão khoái thế này hơn nhiều: ra ngoài trò chuyện với mèo dưới bầu trời xanh.”

“Thật vậy,” Mimi nói.

“Chính thế,” Nakata nói.

“Em thực sự hy vọng là Goma không sao.”

“Cô Mimi, Nakata này sẽ đến ngó qua cái bãi trống ấy một cái.”

“Theo Kawamura, người ấy rất cao, y đội một cái mũ cao thành kỳ dị và đi ủng da, bước rất nhanh. Nom y thật khác thường, nên bác có thể nhận ra ngay. Bọn mèo quen tụ tập ở bãi trống, hễ trông thấy y là chạy tán loạn đi khắp phía. Nhưng con nào mới đến không biết thì…”

Nakata cẩn thận cất giữ thông tin đó vào một ngăn kéo trong đầu để khỏi quên: người ấy rất cao, đội một cái mũ cao thành kỳ dị và đi ủng da.

“Hy vọng là em cũng giúp ích được phần nào,” Mimi nói.

“Nakata này xin đa tạ về tất cả những gì cô đã làm. Nếu cô không có nhã ý lên tiếng, thì đến giờ lão vẫn còn luẩn quẩn với hai chữ cá ngừ. Lão rất cảm ơn.”

“Em nghĩ,” Mimi nói, lo âu ngước nhìn Nakata, “con người này đem lại rắc rối đấy. Rất nhiều rắc rối là đằng khác. Y nguy hiểm hơn bác tưởng nhiều. Ở địa vị bác, em sẽ chẳng bén mảng đến bãi đất trống ấy làm gì. Nhưng xét cho cùng, bác là một con người, bác có công việc của bác, nhưng em mong bác hết sức cẩn trọng.”

“Cám ơn nhã ý của cô, lão sẽ hết sức thận trọng.”

“Bác Nakata, thế giới này là một chốn hung bạo khủng khiếp. Và không ai có thể thoát khỏi sự hung bạo. Xin bác hãy luôn nhớ điều này. Có cẩn trọng bao nhiêu cũng không thừa. Điều đó áp dụng với cả mèo lẫn người.”

“Lão sẽ ghi nhớ điều đó,” Nakata đáp.

Nhưng sự hung bạo ấy ở đâu và như thế nào, thì lão chẳng hay biết chút gì. Thế giới này đầy những thứ mà Nakata không tài nào hiểu nổi và phần lớn những thứ dính dáng đến hung bạo đều thuộc loại này.

Sau khi chào tạm biệt Mimi, lão đến xem khu bãi trống. hóa ra nó chỉ bằng một cái sân chơi nhỏ, quây kín bởi một hàng rào can bằng gỗ dán, với một tấm biển mang dòng chữ: CẤM VÀO – CÔNG TRƯỜNG XÂY DỰNG NAY MAI (mà dĩ nhiên Nakata không đọc được). Một khóa xích nặng nề chắn lối vào, nhưng vòng ra phía sau thì có một lỗ hổng ở hàng rào, và lão có thể chui vào dễ dàng. Chắc là đã có ai phá ra.

Toàn bộ nhà kho trước đây đã dỡ bỏ, nhưng đất chưa được san nền để xây dựng, nên cỏ mọc um tùm. Một đôi bướm dập dờn quanh những ngọn cỏ roi vàng cao bằng đầu trẻ con. Những mô đất rắn lại bởi nước mưa, có chỗ nhô cao thành gò. Một nơi lý tưởng cho mèo. Người chẳng ai rỗi hơi mò đến, bên trong rất nhiều chỗ ẩn nấp, lại có đủ loại sinh vật nhỏ nhoi để săn bắt.

Chẳng thấy Kawamura đâu cả. Có hai con mèo gầy nhom, lông xác xơ đang ở đó, nhưng khi Nakata lên tiếng chào thân ái, chúng chỉ lạnh lùng nhìn lão rồi biến vào trong đám cỏ rậm. Điều đó cũng dễ hiểu – ai lại muốn bị bắt và bị chặt đuôi? Bản thân Nakata chắc chắn cũng không muốn điều đó xảy ra với mình, mặc dù lão không có đuôi. Chả có gì là lạ khi bọn mèo e ngại lão.

Nakata đứng lên một mô đất cao hơn, nhìn khắp xung quanh. Chẳng có ai khác, chỉ thấy lũ bướm bay lượn trên đám cỏ dại, tìm kiếm một cái gì. Lão tìm thấy một chỗ ngồi tốt, đặt chiếc túi vải khoác trên vai xuống, lấy ra hai cái bánh nhân đậu xanh, ăn thay bữa trưa. Lão uống trà nóng từ một bình thủy mang theo, lim dim mắt lặng lẽ nhấp từng ngụm nhỏ. Một cuối trưa yên tĩnh. Mọi vật đều yên bình và hài hòa. Nakata thấy khó tin là có kẻ đang rình rập để bắt mèo về tra tấn.

Lão vừa nhai vừa vò mái tóc muối tiêu cắt ngắn. nếu có ai khác cùng ngồi đây, hẳn lão đã phân trần Nakata chẳng sáng dạ gì, nhưng rủi thay, lão chỉ có một mình. Lão chỉ có thể gật gù với chính mình một vài lần vế tiếp tục nhai. Ăn xong hai cái bánh, lão gấp tờ giấy bóng kính gói bánh lại thật vuông vắn rồi cất vào túi. Lão đậy nắp phích, vặn chặt lại và cũng bỏ vào túi luôn. Trời có một lớp mây che phủ, nhưng nhìn màu mây, Nakata biết mặt trời đang ở ngay trên đỉnh đầu.

Người ấy rất cao, đội một cái mũ cao thành kỳ dị và đi ủng da.

Nakata cố hình dung con người ấy, nhưng lão không sao mường tượng được một cái mũ cao thành kỳ dị và đôi ủng danhư thế nào. Kawamura đã nói với Mimi rằng nhìn thấy y là biết ngay thôi. Cho nên Nakata quyết định là cứ đợi đến khi nhìn thấy y. Đó rành là kế hoạch tốt nhất. Lão đứng dậy và tè luôn vào đám cỏ – một bãi nước đái thật thà không khách sáo, kéo dài – rồi đi tới một góc bãi khuất kín nhất và ngồi đó đến hết buổi chiều, chờ con người kỳ dị kia xuất hiện.

Chờ đợi là một nhiệm vụ chán ốm. Lão không có manh mối bào để biết bao giờ thì người ấy xuất hiện trở lại – có thể là mai, có thể là cả tuần nữa. Hoặc có thể là chẳng bao giờ nữa cũng nên – đó cũng là một khả năng chứ. Nhưng Nakata đã quen chờ đợi vô mục đích, tiêu thời gian một mình, chẳng làm gì cả. Lão chẳng mảy may lấy thế làm phiền.

Thời gian không thành vấn đề đối với lão. Thậm chí lão không cần đồng hồ. Nakata hành động theo cảm thức riêng của mình về thời gian. Trời rạng ra là sáng, mặt trời lặn và trời tối đen là đêm. Hễ trời tối là lão đến nhà tắm công cộng gần chỗ mình ở, tắm xong thì về nhà ngủ. Có một số ngày trong tuần, nhà tắm công cộng đóng cửa, những hôm đó lão nghỉ tắm và về thẳng nhà. Dạ dày báo cho lão biết giờ ăn và khi nào đến kỳ đi lĩnh chợ cấp (gần đến ngày đó, bao giờ cũng có một ai đó có nhã ý nhắc lão) là lão biết thêm một tháng đã trôi qua. Ngày hôm sau thế nào lão cũng đến cắt tóc ở hiệu cắt tóc đầu phố. Mùa hè nào cũng có người trong phường đãi lão món lươn, và đầu nam vào vào dịp Tết người ta lại mang bánh nếp đến cho lão.

Nakata thả lỏng toàn thân, ngắt mạch suy nghĩ, mặc cho mọi thứ bồng bềnh trôi nổi. Đó là một động thái tự nhiên đối với lão, từ bé lão vẫn làm thế, không cần nghĩ ngợi. Chẳng mấy chốc, biên giới của ý thức lão bắt đầu chấp chới như những cánh bướm. Bên kia biên giới đó là một vực thẳm tối đen. Đôi khi, ý thức của lão bay qua biên giới và chao lượn bên trên vực sâu đen ngòm đến chóng mặt đó. Nhưng Nakata không sợ bóng tối hoặc độ sâu của nó. Mà tại sao lão lại phải sợ? Cái thế giới không đáy của bóng tối ấy, cái tĩnh lặng hỗn độn nặng nề ấy là một người bạn cũ và đã trở thành một bộ phận của chính lão từ lâu rồi. Nakata hiểu nó quá rõ. Trong cái thế giới ấy không có chữ viết, không có cả các ngày trong tuần, không có ông Tỉnh trưởng dễ sợ, không có nhạc kịch, không có BMW. Không dao kéo, không mũ cao thành. Mặt khác, cũng không có lươn, không có bánh nhân đậu xanh ngon lành. Có tất cả, nhưng không có bộ phận. Mà đã không có bộ phận thì không cần phải thay thế cái này bằng cái khác. Không cần phải bớt cái gì hoặc thêm cái gì. Không cần phải nghĩ về những điều khó khăn, cứ thả mình bồng bềnh, cho tất cả thấm vào mình. Với Nakata, không gì có thể tốt đẹp hơn thế.

Thi thoảng, lão thiếp đi. Tuy nhiên, ngay cả khi ngủ, những giác quan luôn luôn cảnh giác của lão vẫn quan sát bãi trống. Nếu có gì xảy ra, nếu có ai đến, lão có thể thức dậy ngay và làm những gì cần làm. Bầu trời bị một lớp mây xám che phủ khắp nhưng ít nhất thì cũng sẽ không mưa ngay. Tất cả bọn mèo đều biết thế. Và cả Nakata cũng biết thế.

——————————–

1 Tiểu thư.


 


 

 

 

 

Young Men’s Christian Association: Hội Thanh niên Thiên Chúa giáo.