Julio Cortazar-Truyện ngắn (1)

người dịch : Hoàng Ngọc Tuấn

(1914-1984)

Julio Cortázar — tiểu thuyết gia, thi sĩ, phê bình gia, nhà viết truyện ngắn, và nhạc sĩ — sinh tại Brussels, nước Bỉ, năm 1914. Song thân là người Á-căn-đình. Sau Thế Chiến thứ Nhất, gia đình ông hồi hương, và ông lớn lên tại Á-căn-đình. Cortázar tốt nghiệp đại học sư phạm văn chương tại Buenos Aires vào năm 1935. Từ 1935 đến 1945, ông dạy học tại nhiều trường trung học khác nhau, và từ 1945 đến 1951, ông làm dịch giả cho một số nhà xuất bản. Trong thời gian đó, ông dịch trọn vẹn tác phẩm văn xuôi của Edgar Allan Poe, và nhiều tác phẩm của André Gide, Walter de la Mare, G.K. Chesterton, Daniel Defoe, và Jean Giono. Viện Đại Học Buenos Aires mời ông vào chức vụ Giáo Sư văn chương, nhưng ông từ chối vì chống lại chế độ độc tài Perón. Năm 1951, ông di cư sang Pháp và sống ở đó cho đến khi lìa đời vào năm 1984.
 
Năm 1981, tổng thống Mitterand trao tặng quốc tịch Pháp cho Julio Cortázar, và ông nhận vinh dự này, nhưng nhất quyết không từ bỏ quốc tịch Á-căn-đình. Song song với sự nghiệp văn chương, Cortázar còn là một nhà vận động chính trị. Ông viếng Cuba năm 1961 và Nicaragua năm 1983. Tiểu thuyết Libro de Manuel (1973) của ông đoạt giải văn học Prix Médicis năm 1974 và ông trao tặng tất cả tiền thưởng cho Mặt Trận Thống Nhất Chi-lê.
 
Trong hơn 30 năm sống ở Pháp, mỗi năm ông dành bốn tháng để làm việc như một dịch giả cho UNESCO (dịch từ tiếng Pháp và Anh sang tiếng Tây-ban-nha), và tám tháng còn lại để viết văn, làm thơ và chơi nhạc (ông còn là một nhạc sĩ jazz, chuyên chơi kèn trumpet!).
 
Julio Cortázar bắt đầu làm thơ và viết kịch bản từ những năm 1930, nhưng bắt đầu nổi tiếng vào năm 1951 với tập truyện ngắn Bestiario. Năm 1963, tiểu thuyết Rayuela đưa ông vào địa vị hàng đầu trong văn đàn quốc tế. Số lượng tác phẩm ông đã xuất bản hết sức đồ sộ, trong đó có những cuốn lẫy lừng như Final de juego (1956), Las armas secretas (1959), Los premios (1960), Historias de cronopios y famas (1962), Todos los fuegos el fuego (1966), La vuelta al día en ochenta mundos (1967), Último round (1968), 62/ Modelo para armar (1968), Libro de Manuel (1973), Octaedro (1974), Alguien que anda por ahí (1977), Un tal Lucas (1979), Queremos tanto a Glenda (1980), Deshoras (1982), vân vân.
 
Ông đoạt rất nhiều giải thưởng quan trọng, trong đó có “Prix Médicis” (như đã nêu trên) và “Orden de la Independencia Cultural Rubén Darío” (1984) — chính nhà thơ Ernesto Cardinal (1925~), khi ấy đang là Bộ trưởng Văn Hoá của Nicaragua, đã tận tay trao giải thưởng này cho Julio Cortázar.
 
Pablo Neruda — nhà thơ Chi-lê đoạt giải Nobel Văn Chương 1971 — có lần nói: “Người nào chưa từng đọc Cortázar, người ấy là kẻ mắc đoạ”.

 

VIETATO INTRODURRE BICICLETTE *

(CẤM MANG THEO XE ĐẠP) 

Trong những ngân hàng và những thương xá của thế giới này, không ai càu nhàu nếu có người nào đó bước vào, nách kẹp một cái bắp cải, hay một con chim tucán với chiếc mỏ to kềnh và bộ lông sặc sỡ, hay miệng tuôn ra những bài ca mẹ dạy hồi còn bé nghe nhừa nhựa như một sợi gai dầu, hay ôm một con hắc tinh tinh mặc áo T-shirt. Nhưng ngay khi có ai bước vào với một chiếc xe đạp, thì người ta phàn nàn nhặng xị cả lên, và chiếc xe bị ném mạnh ra ngoài đường trong lúc ông chủ xe vô phúc bị các nhân viên khiển trách nặng nề.

Đối với một chiếc xe đạp, một vật thể ngoan ngoãn và có tư cách khiêm tốn, thì thật là một sự sỉ nhục và một điều trớ trêu để nó cứ phải luôn luôn nhìn thấy những bảng cáo thị kiêu kỳ bắt nó đứng đợi bên ngoài những cửa kính đẹp đẽ của đô thị. Nên biết rằng những chiếc xe đạp đã cố gắng bằng mọi cách để cải thiện cái tình trạng đáng buồn của xã hội. Thế nhưng mọi quốc gia trên trái đất đều tuyệt đối CẤM MANG THEO XE ĐẠP. Vài bảng cáo thị còn ghi thêm “và chó”, và điều này chỉ làm tăng gấp đôi cái mặc cảm tự ti bẩm sinh của những chiếc xe đạp và những con chó. Một con mèo, một con thỏ cái, một con rùa, trên nguyên tắc, có thể bước vào công ty xuất-nhập cảng Bunge & Born, hay những văn phòng luật sư trên đường San Martín, mà không gây nên điều gì khác hơn là một sự ngạc nhiên, một điều khoái trá cho những cô điện thoại viên đang căng thẳng vì công việc, hay, thậm chí, một lời ra lệnh cho người gác cửa ném những con vật ấy ra ngoài đường. Điều cuối cùng này có thể xảy ra, nhưng đó không phải là một sự sỉ nhục, vì, trước hết, đó chỉ là một trong nhiều điều có thể xảy ra và, thứ đến, nó xảy ra như một phản ứng mang tính nhân-quả, chứ không như là một nguyên tắc máy móc đã được đề ra trước, một điều lệ quái gở đã được phổ biến rộng rãi và được in sẵn lên những bảng bằng sứ hay bằng đồng như những quy định luật pháp nhằm triệt tiêu cái cử chỉ vô tình đơn giản của những chiếc xe đạp, những vật thể hồn nhiên.

Nói cho cùng, thưa các ngài giám đốc, hãy coi chừng! Những đoá hoa hồng cũng ngây thơ và thanh nhã, nhưng xin các ngài biết rằng trong một cuộc chiến của những đoá hoa hồng những vị hoàng tử đã chết đen sì như bị sét đánh, mù mắt giữa những cánh hoa đẫm máu. Liệu rằng một ngày nào đó sẽ không xuất hiện những chiếc xe đạp đầy gai, những gọng tay lái quay ngược về phía trước như những cặp sừng và giận dữ xếp thành một quân đoàn, húc thẳng vào những cửa kính có gắn bảng cáo thị của những công ty bảo hiểm? Và liệu cái ngày bi thảm ấy có chấm dứt với thị trường cổ phần đồng loạt mất giá, và trong vòng hai mươi bốn giờ đồng hồ, những tang lễ sẽ diễn ra cùng với những tấm thiệp phân ưu?

 

 

Chú thích:
* “VIETATO INTRODURRE BICICLETTE”, tiếng Ý, nghĩa là “CẤM MANG THEO XE ĐẠP”, được tác giả dùng để làm nhan đề cho truyện này.
———————–
Dịch từ nguyên tác tiếng Tây-ban-nha: “VIETATO INTRODURRE BICICLETTE”, trong Historias de cronopios y de famas [1962] (Madrid: Ediciones Punto de Lectura, 2004). 

NGƯỜI TÙ

NGƯỜI TÙ:

Tôi không đòi hỏi gì nhiều. Một mẩu bánh mì, một chiếc bánh thịt, một chút ánh sáng để ngón cái và ngón giữa cầm lấy. Tất cả điều tôi cần chỉ là một hộp diêm để nghe tiếng lạo xạo của những con kiến bị giam tù đang đi lòng vòng bên trong. Ngay cả nếu nó trống rỗng; tôi chắc chắn rằng nếu tôi giữ nó sát vào lỗ tai, tôi sẽ nghe tiếng lạo xạo ấy.

 

LÍNH CANH:

Cấm nói, trừ khi nói tiếng Pháp hay tiếng Ý.

 

NGƯỜI TÙ:

 

Rủi quá. Đó chính là những thứ tiếng mà tôi bỏ lại ở nhà vào đêm tôi bị bắt. Họ không cho tôi có thì giờ để tôi mang chúng theo. Tôi chỉ kịp mặc quần lót, thì ông cán bộ với cái mặt đỏ au đã bắt đầu đá đít tôi khiến tôi phải hấp tấp. Họ lôi tôi đến đây, và cái tiếng Pháp với tiếng Ý của tôi bị bỏ lại, vất vào một xó nào đó. Tôi tưởng tượng chúng sẽ đói. Anh có nghĩ rằng một người nào đó của chính quyền sẽ đến cho chúng ăn một thứ gì đó chăng?

 

LÍNH CANH:

Tôi chẳng biết gì cả.

 

NGƯỜI TÙ:

Giống như những côn trùng, những con chữ loanh quanh lui tới, càng lúc lại càng xanh xao và kiệt sức hơn. Trước hết, những liên từ sẽ chết, thân xác của chúng là những gì yếu đuối nhất và dễ dàng thay thế nhất.

 

LÍNH CANH:

Những liên từ.

 

NGƯỜI TÙ:

Rồi đến những trạng từ và những tính từ. Cái chết của những tính từ thì sẽ rất buồn, như những ánh đèn nhấp nháy rồi phụt tắt. Ai cũng biết tính từ là nguồn toả sáng của ngôn ngữ.

 

LÍNH CANH:

Xử tử những tính từ!

 

NGƯỜI TÙ:

Những động từ sẽ cầm cự đến cuối cùng. Và những danh từ. À, chúng không dễ dàng đến thế. Không phải ai cũng có thể đánh văng một danh từ, hình dung thử xem. Bánh mì. Ai sẽ giết chữ này? Và Cây thông. Cái rìu chưa được chế tạo có thể chặt nó ngã xuống, không có sự im lặng nào sẽ dỗ dành cho những cành cây đầy những con chim non nín đi được.

 

LÍNH CANH:

Trí tưởng tượng của ông lên cơn sốt rồi (giở xem một cuốn cẩm nang). Ông mắc chứng cuồng chữ, liên tưởng điên loạn, và ngộ biện. Có lẽ còn thêm bệnh nhớ sai và lý luận mơ hồ.

 

NGƯỜI TÙ:

Và tôi đói. Rất đói.

 

LÍNH CANH:

Chúng tôi sẽ giết ông trong chốc lát, rồi cơn đói của ông sẽ trôi qua.

 

NGƯỜI TÙ:

Tôi sẽ ăn chính tôi thành từng miếng nho nhỏ, mỗi lần gặm một chút.

 

LÍNH CANH:

Dĩ nhiên ông vẫn luôn luôn có thể cứu mạng chính mình nếu ông thú nhận ai đang nắm kế hoạch của Chiến Dịch H.

 

NGƯỜI TÙ:

Dĩ nhiên tôi vẫn luôn luôn có thể cứu mạng chính mình nếu tôi thú nhận ai đang nắm kế hoạch của Chiến Dịch H.

 

LÍNH CANH:

Nhưng . . .

 

NGƯỜI TÙ:

Đúng thế. 

_____
Dịch từ nguyên tác tiếng Tây-ban-nha:”El preso”, trong Historias de cronopios y de famas [1962] (Madrid: Ediciones Punto de Lectura, 2004). 

NHỮNG THẢO VIÊN NỐI LIỀN

Ông đã bắt đầu đọc cuốn tiểu thuyết từ mấy hôm trước. Ông đã gấp nó lại vì mấy cuộc họp khẩn về doanh nghiệp, rồi lại mở nó ra trên đường về điền trang bằng xe lửa; ông tự cho phép mình tăng dần sự thích thú về tình tiết và nhân vật của truyện. Chiều hôm đó, sau khi viết một bức thư ủy quyền và thảo luận vấn đề đồng sở hữu với người quản lý điền trang, ông trở lại với cuốn sách trong sự yên tĩnh của phòng văn có khung cửa trổ về phía thảo viên với những cây sồi. Duỗi người trên chiếc ghế bành ông ưa thích, với lưng ghế quay về phía cửa lớn — ngay cả chỉ thoáng nghĩ có bất cứ ai đến vào lúc này đã khiến ông bực mình — ông để bàn tay trái ve vuốt tấm nhung xanh lục bọc đệm ghế và bắt đầu đọc những chương cuối cùng. Không một chút cố gắng, ông nhớ lại những danh tính và ấn tượng ông có về các nhân vật; sức mê hoặc của cuốn tiểu thuyết lập tức lan toả trong tư tưởng ông. Ông nếm cái khoái lạc có vẻ khá kỳ quặc là vừa đọc từng hàng chữ vừa tự tách mình ra khỏi những sự vật chung quanh, và cùng lúc vẫn cảm thấy đầu mình đang tựa êm ả lên lớp nhung xanh lục của chiếc ghế, vẫn biết những điếu thuốc lá đang nằm gần tầm tay, và bên ngoài những khung cửa sổ lớn không khí buổi chiều đang nhảy múa dưới những cây sồi trong thảo viên. Từng chữ rồi từng chữ bị nuốt chửng theo trạng huống ghê gớm xảy đến cho người hùng và giai nhân, ông để mình nhập cuộc đến độ những hình ảnh hiện ra rõ ràng, có màu sắc và chuyển động, và ông trở thành chứng nhân của cuộc gặp gỡ cuối cùng trong túp lều trên núi. Người đàn bà đến trước, quay quắt; và bây giờ người tình đến, mặt gã bị một nhánh cây cào rách. Nàng ân cần làm cầm máu bằng những nụ hôn, nhưng gã gạt phắt những cử chỉ âu yếm của nàng, gã không đến lúc này để tái trình diễn những nghi lễ màu mè của một niềm đam mê bí mật được che giấu bởi một thế giới đầy lá khô và những lối mòn lẩn lút trong rừng. Con dao găm tự sưởi ấm trên ngực gã, và dưới đó sự tự do vỗ đập, ẩn khuất. Một cuộc đối thoại hổn hển dục vọng đổ ùa xuống những trang giấy như một dòng suối đầy rắn độc, và người ta cảm nhận nó đã được quyết định từ thiên thu. Ngay cả những cái vuốt ve cuống quít của nàng trên thân xác gã, chừng như muốn giữ gã lại, can ngăn gã trước âm mưu đó, cũng gợi ra cho gã một nét phác thô thiển về cái thân xác của kẻ kia, kẻ gã cần phải tiêu diệt. Không một chi tiết nào bị bỏ sót: bằng chứng ngoại phạm, những rủi ro bất ngờ, những sơ suất có thể xảy ra. Kể từ lúc này, từng giây phút phải được sử dụng cực kỳ chính xác. Kế hoạch hạ sát lạnh lùng được duyệt lại hai lần trong từng chi tiết không cho gã một chút thì giờ nào để bàn tay được mơn trớn đôi má nàng. Trời đã bắt đầu tối.

Không còn nhìn nhau nữa, hoàn toàn tập trung vào công việc đang chờ đợi, họ chia tay ở cửa lều. Nàng phải theo lối mòn về phía bắc. Tại ngả ba, gã xoay người lại chốc lát để nhìn nàng chạy, tóc nàng xổ ra và bay bồng bềnh. Rồi gã chạy, và gã nằm chờ giữa những thân cây và bụi rậm cho đến khi, trong màn sương vàng nhạt của chiều hôm, gã có thể nhận ra dãy cây sồi dẫn đến ngôi nhà. Bầy chó không nên sủa, và quả chúng không sủa. Người quản lý điền trang không nên xuất hiện vào lúc này, và hắn không xuất hiện. Tai gã nghe lại mồn một từng chữ người đàn bà nói giữa tiếng đập của mạch máu: trước hết là một phòng lớn màu da trời, rồi một hành lang, rồi một cầu thang có phủ thảm. Hết cầu thang, có hai khung cửa lớn. Không ai trong phòng thứ nhất, không ai trong phòng thứ hai. Cửa ra vào phòng khách, và rồi, chiếc dao găm trong tay, ánh đèn từ những cửa sổ mở rộng, lưng của một chiếc ghế bành bọc nhung xanh lục, chóp đầu của gã đàn ông đang ngồi đọc một cuốn tiểu thuyết.

 

Nguyên tác: “Continuidad de los parques” (1956), trong Final de juego [Kết thúc trò chơi]
(Madrid: Ediciones Universal, 2000).
 
 

NHỮNG NGHIÊN CỨU ĐỊA LÝ

 

Có bằng chứng rằng kiến là chúa tể đích thực của vạn vật (độc giả có thể xem đó là một giả thuyết hay một ý tưởng cuồng phóng; nhưng dẫu thế nào thì một chút ý tưởng thoát ly nhân chủng cũng thú vị), và đây là một trang sách địa lý của kiến:

(trang 84 của cuốn sách; các sự kiện khả dĩ tương đương với những cách mô tả nào đó sẽ được đặt vào trong dấu ngoặc đơn, bắt chước theo lối diễn dịch cổ điển của Gaston Loeb)“. . . những mặt biển song song (những con sông?). Khối nước vô hạn (một cái biển?) dâng lên ở những khoảnh khắc nào đó như một cây trường-xuân-trường-xuân-trường-xuân (ý tưởng về một bức tường rất cao, phải chăng để diễn tả cơn thủy triều?). Nếu ta đi-đi-đi-đi (ý tưởng này tương ứng với khoảng cách) ta đến Bóng Mát Lá Cây Xanh Vĩ Đại (một cánh đồng sum suê, một bụi rậm, một khu rừng?) nơi Chúa Trời Vĩ Đại làm đầy vựa thóc vĩnh cửu cho những Công Nhân Ưu Tú của Ngài. Trong khu vực này có rất nhiều Sinh Vật Khổng Lồ (con người?) làm hư hỏng những đường mòn của chúng ta. Bên kia Bóng Mát Lá Cây Xanh Vĩ Đại là đến Bầu Trời Kiên Cố (một ngọn núi?). Và tất cả thuộc về chúng ta, nhưng đầy những mối hiểm nguy.”

Cuốn sách địa lý này đã từng là đề tài của một sự diễn dịch khác (Dick Fry và Niels Peterson Jr.). Cảnh vật có lẽ tương ứng với địa hình của một mảnh vườn nhỏ ở nhà số 628 đường Laprida, Buenos Aires. Những mặt biển song song là hai cái rãnh tháo nước thải; khối nước vô hạn là cái ao thả vịt; Bóng Mát Lá Cây Xanh Vĩ Đại là một luống cải. Những Sinh Vật Khổng Lồ, theo họ, có lẽ là những con vịt hay những con gà, nhưng cũng không nên loại trừ khả năng đó là những con người. Về Bầu Trời Kiên Cố thì có một cuộc tranh luận đang xảy ra và chưa biết chừng nào kết thúc. Theo ý kiến của Fry và Peterson, đó hiển nhiên là cái sân gạch của nhà bên cạnh; ngược lại, Guillermo Sofovich cho rằng đó là một cái bồn tiểu bị vất bỏ giữa luống cải.

 

 
 

CHẲNG CÒN HY VỌNG VỀ

 

Phòng sinh hoạt của chúng tôi khá rộng, nhưng nếu nghĩ rằng trong đó Robert

 

Chúng tôi không có quá nhiều thiết bị nội thất, nên còn chỗ rộng rãi để đón cha mẹ và bạn bè khi họ đến để

 

Tôi ngồi trên ghế dựa bên cạnh cái đèn và vợ tôi hầu như luôn luôn ngồi trên cái ghế nơi nàng có thể

 

Chỉ có một cái bàn, hẹp và dài, chúng tôi dùng để

 

Bạn có thể tự do đi loanh quanh, nhìn các kệ sách trong thư phòng, và ngồi trên cái băng ghế dài gắn vào

 

Tôi nghĩ đó chính là chỗ Robert sẽ đến ngồi thì vào lúc ấy, ngay giữa phòng sinh hoạt

 

Chắc hẳn lúc ấy là mười giờ đêm, cũng có lẽ là mười giờ mười, gia đình Mouniers đồng ý như thế, trong khi vợ tôi

 

Hãy cứ cho là mười giờ năm, không phải để

 

Đúng ra, chúng tôi vừa mời khách uống cà-phê thì Robert nói với bà Cinabre rằng

 

Tôi nghĩ tôi nhớ rằng anh ta có rút ra một điếu thuốc lá và trong lúc đang bước đến cái băng ghế dài anh ta đã

 

Dẫu sao, anh ta đã đặt điếu thuốc lên môi rồi dừng lại và

 

Chúng tôi nghe tiếng ồn ào và vợ tôi ngưng tay đan len và nhìn Robert tuồng như nàng không thể

 

Còn gia đình Mouniers, họ đang ngồi trên sàn nhà gần lò sưởi khi

 

Còn tôi, tôi cầm cái cốc đựng

 

Một thoáng bức xúc và Robert vấp chân, nhìn xuống hai bàn chân như thể điều ấy rất là

 

Vợ tôi vẫn luôn luôn nói rằng trong phòng sinh hoạt người ta có thể

 

Không phải là Paul, Paul đoan chắc rằng anh ta sẽ không bao giờ

 

Riêng về phần tôi, tôi chẳng bao giờ muốn dính dự vào nhưng tôi phải nói y như thế rằng Robert cũng

 

Nhưng tôi phải thú nhận rằng vào một khoảnh khắc bất ngờ như thế này thì cũng có thể hiểu được tại sao một người đàn ông

 

Chắc hẳn anh ta cảm thấy điếu thuốc lá trong miệng có điều gì lạ vì anh ta lấy nó ra và giữ nó giữa hai ngón tay trong khi

 

Như bạn có thể tưởng tượng, bà Cinabre không nghĩ ra được điều gì cả mà chỉ làm những dấu hiệu mơ hồ với

 

Gia đình Mounies, ngồi trên sàn nhà, có thể nhìn thấy rõ hơn và họ trao nhau những cái liếc mắt như thể

 

Chắc hẳn đó là cái chân trái vì Robert té ra sau, dựa vào

 

“Chúng ta phải,” vợ tôi nói sau khi

 

“Hãy cứ đợi cho đến khi,” tôi trả lời, tôi là kẻ mà theo nguyên tắc thì

 

Đôi khi sự việc có vẻ quá tệ hại, nhưng rồi, rốt cuộc

 

“Nào có ai biết độ sâu của vùng đó nơi mà,” Paul thầm thì như thể chúng tôi không

 

Chữ dò độ sâu luôn luôn hấp dẫn tôi, kể từ khi

 

“Hãy vất điếu thuốc của anh đi khi mà,” gia đình Mouniers đề nghị, làm cái động tác như

 

Cũng như những chữ hải đăng, đê chắn sóng, bão, cánh buồm chính, và

 

Có lẽ sợ một ngọn lửa mà nó sẽ chỉ

 

Thậm chí cũng chưa đến mười giờ rưỡi và Robert vẫn còn có thể mong

 

Nhưng liệu có ai nghĩ sẽ đi đến chỗ anh ta với

 

Đặc biệt xét thấy rằng anh ta đã sẵn

 

“Một sự bức xúc như thể là,” Paul nói, trong chúng tôi anh ấy là người ít

 

Từ chỗ ngồi của mình, gia đình Mouniers có thể thấy sự dâng cao của

 

Tôi nghĩ anh ta kêu lên một hay hai tiếng nhưng trong trường hợp đó thì khó mà

 

“Chúng ta phải ném cho anh ta một,” tôi nói mà không quá

 

Ít nhất hãy thử với cái này

 

Trông rất bình dị, nhưng một phòng sinh hoạt nơi

 

“Chẳng sao cả cái điều,” bà Cinabre nói với một vẻ

 

Bà ấy nói trắng điều ấy ra, như thể chúng tôi

 

Ngoài ra, gia đình Mouniers đã tin chắc rằng cả hai bàn chân

 

“Tôi thật tình không tin rằng chúng sẽ vận hành mà không có,” Paul nói, trong chúng tôi anh ấy là người nhiều

 

Tôi đinh ninh anh ta đang nói về những cái bơm, vì thật ra cái

 

Cuối cùng anh ta vất điếu thuốc, hiển nhiên là để

 

Chúng tôi có thể hình dung nó là một cái cọc trắng nhỏ cắm xuống và

 

Trong những trường hợp như vậy bạn nghĩ những con hải âu, chứ không bao giờ những con chim bói cá, sẽ là

 

“Nếu anh ta có thì giờ để báo cáo vĩ độ của anh ta cho,” Paul nói, như thể

 

Nhóm chữ “vô tuyến điện tín” hiện ra trong óc tôi, một nhóm chữ mà trong thời đại chúng ta nó đã rơi vào

 

Vợ tôi có cảm tưởng rằng hai đầu gối của

 

Thế nhưng, có tốt lành gì mà phát tán nỗi lo sợ khi sự việc chưa

 

Chúng tôi có thể gọi điện thoại, nhưng thế thì chúng tôi phải giải thích rằng

 

Gia đình Mouniers dường như muốn giúp anh ta bằng cách đưa cho anh ta cầm cái đầu bên kia của

 

Thế nhưng họ lưỡng lự, cũng tự nhiên thôi, vì

 

Chúng tôi đồng cảm với gia đình Mouniers, nhưng không đồng cảm khi họ muốn lấy cái

 

“Hầu như là,” Paul nói, với cái giọng của

 

Vợ tôi nhét đôi kim đan vào cuộn len và nhìn tôi, có lẽ chờ tôi

 

Điều ấy chẳng dễ dàng như vậy, trước hết bạn phải nhận thấy rằng

 

Tất cả chúng tôi đều không muốn làm phiền Robert, mặc dù

 

Hơn nữa, chẳng phải là vấn đề nếu cô người hầu

 

Ai cũng biết rằng một khi đã được cho vào thì những người ngoại cuộc sẽ

 

Paul chạy đi kiểm soát cho chắc chắn rằng các cửa lớn và cửa sổ sẽ không để cho bất cứ ai

 

Điều làm mọi người nản lòng là những tiếng la của anh ta càng lúc càng

 

“Chắc chắn rằng những con đại hải âu như,” bà Cinabre nói với cái giọng hoài cảm mà bà vẫn luôn luôn

 

Một người trong gia đình Mouniers bắt đầu làm những động tác bơi lội, mà không nhận ra rằng

 

Người khác, nhận thức rõ hơn về

 

Tôi cảm động vì sự can đảm của họ, vì trong một ngôi nhà của những người được giáo dục tốt

 

“Chúng tôi phải hỏi liệu có tốt hơn cho lần này và mãi mãi về sau rằng,” vợ tôi nói, phác một cử chỉ rằng chúng tôi

 

Nàng bày tỏ ý kiến chung của mọi người rằng

 

Tôi phải thừa nhận rằng bạn phải cảm thấy một sự bớt căng thẳng nào đó vì

 

Hiển nhiên không phải cho chúng tôi mà cho anh ta, vì rốt cuộc thì kẻ đáng thương

 

Chữ ấy là borborygmus[*] và ngay cả

 

Đó không phải là một chữ hay ho nhưng thật tình nó khiến tôi phải

 

“Người ta có thể nói rằng một con sứa bắt đầu buông vòi xuống để,” rốt cuộc bà Cinabre nói, những hình ảnh của bà

 

Vâng, chút ít, vì những sợi tóc

 

Như thể vô số những ngón tay tí hon mở ra và xếp lại trên cái

 

Vợ tôi bước ra ngoài, cẩn thận mang theo cái cốc cà-phê chưa uống, và chúng tôi thấy dường như là

 

Loại cử chỉ ấy đáng được một sự tán thưởng thầm lặng, vì chẳng phải là nó

 

Rốt cuộc, trong một ngôi nhà như nhà của chúng tôi nơi

 

Không ai có thể nói rằng chúng tôi đã không tận lực để

 

 
CHUYỆN HOÀN TOÀN CÓ THẬT

 

Một người đàn ông đánh rơi cặp kiếng mắt của y; chúng chạm xuống nền gạch làm bật lên một tiếng động chát chúa. Người đàn ông cúi xuống lượm chúng lên, hết sức bất bình vì hai tròng kiếng rất mắc tiền, nhưng y kinh ngạc phát hiện rằng nhờ một phép lạ nào đó nên chúng chưa vỡ.

Lúc bấy giờ người đàn ông cảm thấy biết ơn sâu sắc, và hiểu rằng điều vừa xảy ra hàm chứa một lời cảnh báo thân mật, cho nên y liền đi bộ đến một tiệm bán kiếng mắt và mua ngay một hộp đựng kiếng bằng da có lót hai lớp vải đệm, vì một chút đề phòng là điều đáng làm. Một giờ sau đó, cái hộp đựng kiếng rơi xuống, và y bình thản cúi xuống lượm nó lên, nhưng rồi phát hiện rằng hai tròng kiếng đã vỡ nát. Người đàn ông lặng người đi một lát thì mới hiểu ra rằng mắt kiếng hiệu Providencia thì không thể vỡ nát, và, thật ra, bây giờ phép lạ mới xảy đến.

 
 

CẨM NANG HƯỚNG DẪN

 

Công việc làm mềm gạch mỗi ngày, công việc trổ một lối đi xuyên qua cái đống lầy nhầy mệnh danh là thế giới, để mỗi buổi sáng lại chạm trán với khoảng không gian hình chữ nhật chật chội mang cái tên gây buồn mửa, với cảm giác thoả mãn rẻ tiền rằng mọi sự đều đâu vào đấy, cũng người đàn bà ấy bên cạnh, cũng đôi giày ấy, cũng mùi vị ấy của thứ kem đánh răng ấy, cũng những căn nhà buồn bã ấy bên kia đường, cũng những cánh cửa dơ bẩn màu thời gian với dòng chữ in «Hôtel de Belgique».[1]

Bước tới với cái đầu ngúc ngắc như một con bò mộng đờ đẫn lách qua cái khối trong suốt mà ở ngay chính giữa nó chúng ta uống một cà-phê sữa và mở tờ nhật báo để tìm xem cái gì đã xảy ra ở bất cứ một góc nào của cục gạch thuỷ tinh đó. Cứ tiếp tục khăng khăng từ chối rằng hành động tinh tế của việc xoay cái nắm cửa, cái hành động có thể chuyển hoá mọi sự, thì được thực hiện bằng năng lực lãnh đạm của một quán tính thường nhật. Gặp lại nhé, em yêu. Hôm nay vui nhiều nhé.

Nắm chặt hai ngón tay vào cán chiếc muỗng trà và cảm nhận cái tiết tấu kim loại của nó, lời cảnh báo dối lừa của nó. Đau lòng biết mấy khi từ chối một chiếc muỗng, từ chối một khung cửa, từ chối tất cả những thứ mà tập quán đã liếm mòn cho đến trơn láng đúng mức. Đơn giản hơn biết mấy để chấp nhận lời mời dễ dàng của chiếc muỗng, và dùng nó để khuấy cà-phê.

Và không phải là quá tệ hại nếu các sự vật cứ chạm mặt ta mỗi ngày và cứ giống hệt như thế. Cũng người đàn bà đó nằm bên cạnh ta, cũng cái đồng hồ đó, cũng cuốn tiểu thuyết nằm mở ra đó trên bàn thêm một lần nữa bắt đầu cuộc chạy xe đạp xuyên qua đôi mắt kính của ta, thì có cái gì trục trặc đâu nào? Nhưng như một con bò mộng buồn bã, ta phải cúi đầu xuống, vội vã phóng ra từ chính giữa cục gạch thuỷ tinh để lao vào kẻ gần ta nhất mà ta chẳng bao giờ chạm đến được, như con bò một không thể nào chạm được vào một gã kỵ sĩ đấu bò.[2] Hãy trừng phạt đôi mắt nhìn vào cái vật trôi ngang bầu trời và khôn khéo chấp nhận rằng tên nó là mây, câu trả lời đã được xếp sẵn ngăn nắp trong óc. Đừng tin rằng cái máy điện thoại sẽ cho bạn những con số mà bạn đang muốn gọi, tại sao nó lại phải làm thế? Điều duy nhất sẽ đến với bạn là cái gì bạn đã chuẩn bị và quyết định sẵn, cái phản ảnh lờ mờ của những gì bạn mong đợi, con khỉ ấy – nó đang tự gãi mình trên bàn và run lập cập vì lạnh. Hãy đập bể đầu con khỉ ấy, hãy lấy trớn chạy từ giữa phòng rồi đâm bổ vào bức tường, thủng qua bên kia. Ồ, họ hát ở tầng trên! Có một căn hộ ở tầng trên mà những người sống trong đó không biết có một tầng nữa ở dưới họ và mọi người đều đang ở trong một cục gạch bằng thuỷ tinh. Và nếu thình lình một con bướm ngài đậu lên cạnh một cây bút chì và vỗ cánh chấp chới như một ngọn lửa màu xám tro, hãy nhìn nó, như tôi đang nhìn nó, tôi đang sờ trái tim bé tí của nó và nghe tiếng đập, con bướm ngài ấy ngân rung trong cục bột bánh của lớp thuỷ tinh đông đá, mọi thứ đều không mất. Khi cửa mở ra và tôi tựa người vào lan can, tôi sẽ biết rằng đường phố bắt đầu dưới kia; không phải là cái ma trận đã được chấp nhận sẵn, không phải những căn nhà quen thuộc, không phải cái khách sạn bên kia đường; con đường – cánh rừng sinh động nơi từng khoảnh khắc rơi rụng lên tôi như hoa mộc lan, nơi những khuôn mặt sẽ đến với đời sống khi tôi nhìn vào chúng, khi tôi chỉ đi thêm một chút nữa, khi với hai cùi chỏ và cặp lông nheo và những chiếc móng tay tôi phá nát vụn chất bột bánh của cục gạch thuỷ tinh và giành lại đời tôi trong lúc tôi bước tới từng bước để đi mua tờ nhật báo ở góc đường.

 

tienve.org